Archive for CHUYÊN MỤC CHÍNH

HÔN NHÂN GIA ĐÌNH THEO QUAN ĐIỂM NHÂN CHỦNG HỌC VÀ XH HỌC

HÔN NHÂN GIA ĐÌNH THEO QUAN ĐIỂM NHÂN CHỦNG HỌC VÀ XH HỌC

 

Thanh Tuyền, OP.

  1. MỘT VÀI DỮ KIỆN NHÂN CHỦNG HỌC VÀ XÃ HỘI HỌC LIÊN QUAN ĐẾN HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
  1. Chức Năng Xã Hội về Hôn Nhân và Gia Đình
  1. Hôn nhân giữa lòng muốn và luật lệ: Hôn nhân là một trong những chức năng nền tảng của con người, mà qua đó con người biểu tỏ sự ưng thuận với những sự khác biệt, nhận hiểu người khác, và đón nhận. Nguời kết hôn là người thuận theo sự khác biệt nơi người khác, đồng thời cũng chấp nhận khuyết điểm chính tự bản chất nơi mình, là cái bất toàn nơi hữu thể mình. Người ta phải chân nhận ra mình chẳng phải là đấng toàn năng khi biết mình là “một trong bao la những người khác.” Sự khao khát luôn luôn gắn chặt trong con người, đặc biệt là sự khát khao tình dục. Vì thế đây chính là một nguy hiểm rất lớn nếu sự khao khát ấy vẫn mãi âm ỉ trong bản thân mình: Một mặt, có những người chạy theo nguy cơ ấy và biến mình thành những “đồ vật” ; mặt khác, xã hội con người đã tự đánh mất tính liên đới của mình (tính hợp quần theo như định nghĩa của xã hội học): sự khao khát ấy sẵn sàng bộc phát bất cứ lúc nào khi nó bị đánh thức, việc thiếu tiết độ sẽ lôi kéo các cá nhân và sự tranh dành giữa họ sẽ xảy ra hầu làm sao có thể chiếm đoạt được những “đồ vật” mà họ theo đuổi. Xã hội sẽ không thể tồn tại nếu mỗi thành viên của mình không biết tiết độ cái khát khao ấy.

Sự tiết độ này sẽ thể hiện khi tương quan với những người khác nhờ việc ngăn ngừa tình trạng loạn luân mà chúng ta có thể nhận thấy nơi xã hội nào cũng có, dẫu rằng mỗi xã hội đều có những dạng thức hay nguyên tắc khác biệt. Đây không chỉ đơn giản là luật lệ trong những xã hội với nhau mà thôi; tận sâu thẳm, chính là Thiên Luật vậy. Thiên Luật cho phép hình thành nên cấu trúc xã hội con người, vì thế Luật này sẽ là Luật cần được đặt giữa các luật khác. Trong việc ngăn ngừa tình trạng loạn luân, người ta tách khoái lạc nhục dục (bản năng) ra khỏi sự vận hành của xã hội.

Hôn nhân là một chiều kích căn bản của xã hội: vì một mặt, hôn nhân đụng đến sự khác biệt về tính dục con người, mà sự khác biệt ẤY mang tính người (người ta có thể không sống được nếu như không tự thẩm định tính dục nơi bản thân mình). Đây là sự giới hạn căn bản của thân phận con người mà được khắc sâu vào xác thân con người của mình. Mặt khác, về phía bản thân, hôn nhân thiết lập nên mối tương giao hỗ tương với người phối ngẫu của mình: “ta” đây nhưng cũng là “mình” nữa, và “mình” kia nhưng cũng là “ta” vậy. “Ta” với “mình” là một, cũng như “mình” với “ta” như nhau mà thôi vậy. Sự khác biệt này sẽ được hiển lộ bằng việc trao đổi lời nói và đời sống chung đụng, mà qua đó cũng bao hàm cả đời sống tình dục nữa.

  1. Cấu trúc xã hội: xã hội được cấu thành nên từ những đơn vị nho nhỏ, hoặc từ những tế bào, mà được gọi là gia đình. Lễ thành hôn là một sự kiện cho việc khởi sự công trình sáng tạo cho một cấu trúc căn bản và hoàn toàn mới mẻ, và thế là xã hội đã có và thừa nhận một thành tố vừa được khai sinh.
  1. Tính Liên Tục của Xã Hội qua việc “Sản Xuất” những Con Trẻ: Tế bào hôn nhân chính là chốn sẽ sản sinh ra những thành tố mà có thể làm cho xã hội tồn tại và tăng trưởng. Xét trên bình diện xã hội học, chức năng hôn nhân là thế này: sản sinh và giáo dục con trẻ: “con trẻ chính là một minh chứng sống động của hôn nhân.” Đây là lý do tại sao hôn nhân dị giới, chế độ một vợ một chồng và sự bền vững vẫn luôn được coi là một hôn nhân chuẩn mực ở mức cao nhất, và cũng thế: hôn nhân dị giới là cần thiết vì chỉ qua đó mới có điều kiện sinh con đẻ cái; và để cho con trẻ có một cấu trúc đúng thì chúng cần phải ở trong môi trường sống quân bình, nơi mà chúng có thể biểu tỏ vai trò và căn tính của chính mình; chế độ một vợ một chồng là quan trọng, vì qua đó, tự do cũng như phẩm giá con người trong cộng đồng được tôn trọng nhiều hơn cả; sự bền vững là thiết yếu vì cấu trúc con người nơi con trẻ đòi hỏi cần có một cộng đồng vững bền. Đấy là lý do tại sao xã hội cũng cần tôn trọng và khích lệ sự kết hợp trong hôn nhân: vì điều này liên quan đến sự sống còn của xã hội.

Hôn nhân làm cho chức năng sinh sản của người nam và người nữ được hợp thức hóa, trong sáng và khuôn khổ. Tình yêu là nhiệm mầu, thế nhưng tình yêu lại chẳng có liên quan gì đến Nhà nước hay thể chế xã hội nào cả; Theo hôn nhân dân sự, không có hai chữ “tình yêu.” Trong xã hội của chúng ta ngày nay, rõ ràng hôn nhân đã nói cho chúng ta biết được những tính cách của con người sẽ không thể nào sống động nếu không có tình yêu. Quan điểm xã hội như thế quả là lý thú, nhưng vẫn chưa trọn vẹn.

  1. Mô Hình Truyền Thống của Đôi Lứa
  1. Sự Qui Chiếu về Gia Đình: Mô hình truyền thống của đôi lứa trước tiên được định nghĩa trong mối quan hệ gia đình, dòng tộc, và thị tộc. Đôi vợ chồng khám phá mình được hòa nhập vào trong một bối cảnh gia đình nào đó, mà chính nơi ấy là một thể thống nhất để sản sinh ra những con người cho xã hội, và cũng chính nơi ấy mà mỗi thành viên đều có chỗ đứng và vai trò của mình vốn đã được định trước. Nói chung, đây là mô hình cho những xã hội được gọi là truyền thống; tuy nhiên, xã hội Châu Âu cũng theo mô hình này cho đến thế kỷ XIX.
  1. Một Số Truyền Thuyết:

* Truyền thuyết về giới mày râu: Theo truyền thống, người đàn ông được xem như đã tự đầy đủ nơi chính mình, còn người phụ nữ chỉ hữu ích khi thực hiện hành vi sinh nở mà thôi. Để có thể trợ giúp vào trong những lãnh vực khác, người đàn ông khác còn có hiệu năng hơn là một người phụ nữ nữa. Phụ nữ bị quan niệm một cách rất tiêu cực, chẳng hạn sự hiện hữu của họ bị xem như là một tai họa vậy. Trong bộ luật xã hội truyền thống, thông thường phụ nữ có một cương vị xã hội vô cùng thấp kém. Chẳng hạn như:

  • Luật Manou của ông Solon thuộc người Athène (640 – 558 tcn), luật Lê-vi, cổ luật La Mã, luật Coran (Hồi giáo), luật Do Thái.
  • Theo Aristote, phụ nữ chẳng qua chỉ là đàn ông bị thoái hóa.
  • Trong lời nguyện kinh sáng của Do Thái giáo, chúng ta cũng đọc thấy câu: “Lạy Đức Chúa, con xin tạ ơn Ngài vì Ngài đã không dựng nên con là người phụ nữ.”
  • Đối với thánh Tô-ma, người phụ nữ cần phải câm nín vì “lý trí của họ rất kém cỏi,” nên không có khả năng trình bày và diễn tả tư tưởng mình hầu hướng dẫn người khác, cũng như không thể điều hành hoặc trở thành người bênh vực được (Chú giải 1 Co 14,34).

* Truyền thuyết về phái yếu: Thông thường, phụ nữ bị đối xử như trẻ con. Phải đến thế kỷ XX thì tình trạng này mới chấm dứt. Hơn nữa, khi chúng ta nhìn qua Âu Châu, đặc biệt là ở Pháp, “năng lực xét xử” của phụ nữ đã được chấp thuận vào năm 1938, nhưng mãi đến năm 1946 thì họ mới có quyền đầu phiếu. Sự yếu đuối của phụ nữ đối chiếu với sức mạnh thể lý của đàn ông được coi như là một biểu hiện rõ nét hơn của toàn thể cái kém cỏi của họ.

Tại sao chúng ta lại đề cập đến những truyền thuyết ấy? Vì ngày nay, rõ ràng chúng ta được biết vai trò của phụ nữ trong đời sống hôn nhân cũng quan trọng không kém gì đàn ông trong công việc mà xã hội trao phó. Trong những xã hội Tây phương, thực tại của phụ nữ trước kia vốn từng bị giới hạn và gò bó trong những công việc nội trợ và giáo dục thì đã phát triển rõ rệt vào thế kỷ XIX, và sau đó được hồi sinh vào thế kỷ XX. Thế nhưng xét về mặt lịch sử, người ta nhận thấy những sự kiện ấy biểu tỏ một cách khác: Martine Segalen giải thích rằng, tại những vùng nông thôn, phụ nữ làm việc trên những cánh đồng hoặc trong các trang trại; còn những con trẻ thì được bà hoặc người lớn trông nom; trong những gia đình nhân công, phụ nữ cố gắng phải tìm cho được một công việc nào đó làm tại nhà để họ còn có thể trông nom con cái mình. Chính họ là người sẽ tạo nên nền tảng cơ chế trong gia đình (những chi tiêu nho nhỏ, kinh tế, tính toán, lo toan bữa ăn). Nếu những vai trò này bị tách biệt cách nghiêm ngặt thì phải coi đây là những gia đình trưởng giả vậy.

  1. Phụ nữ nội trợ: Vai trò truyền thống được trao phó cho người phụ nữ là những gì thuộc về công việc nội trợ. Quả vậy, xét theo thực tại sinh vật học, sự thật có những lý do của nó để hiện hữu, miễn là với điều kiện không ép buộc phụ nữ nhất thiết phải ở trong nhà, như tình trạng đã xảy ra ở Hy Lạp trước kia (khuê phòng). Trong mô hình truyền thống của người phụ nữ nội trợ, có sự tách biệt tình dục khỏi những trách nhiệm hay đời sống vợ chồng. Phụ nữ được định tính qua chức năng làm mẹ của mình. Theo mô hình này, người đàn ông đóng vai trò chính trong việc lo kế sinh nhai, là người cung cấp tài chính cho gia đình, còn phụ nữ là người điều hành trong lãnh vực nội trợ và giáo dục con cái.

 

  1. HÔN NHÂN NGÀY NAY
  1. Những biến chuyển của vợ chồng ngày nay
  1. Thông số: Kể từ năm 1965 trở đi, và chỉ trong khoảng thời gian rất vắn vỏi, tất cả những tài liệu và tin tức về dân số đã đánh dấu bước ngoặc rất quan trọng: sự giảm thiểu nhanh chóng chỉ số sinh và hôn nhân; chỉ số ly dị tăng vọt khủng khiếp, mỗi lúc một gia tăng những cặp chưa hợp thức hóa về mặt pháp lý (sống chung với nhau mà chưa làm lễ kết hôn), sinh con ngoài giá thú cũng tăng nhanh, và gia tăng số trẻ sơ sinh của người cha nhưng không có mẹ hay ngược lại.

Qua những số liệu trên, thiết nghĩ chúng ta cần chú trọng đến những mối quan hệ trong hôn nhân: người ta nhận thấy, chỉ số những cặp có tổ chức lễ kết hôn giảm ghê gớm; Trái lại, số cặp ly dị và những cặp sống chung tăng rất nhanh chóng (những cặp sống chung có thể là do họ theo đuổi nhau, nhưng cũng có thể là hôn nhân của họ cứ bị đổ vỡ hoài), cũng như sự gia tăng số trẻ sơ sinh ngoài giá thú ngày càng nhiều vô kể. Qua đây, chúng ta nhận thấy có một thái độ mới đối với hôn nhân, đó là dần dần con người không còn muốn dấn thân vào xã hội nữa, và tình trạng đổ vỡ trong hôn nhân ngày càng xuất hiện nhiều hơn.

Sự trùng lắp những số liệu trên chẳng phải là ngẫu nhiên; đó là kết quả của sự đảo ngược chưa từng có về não trạng xã hội liên quan đến hôn nhân và đời sống vợ chồng.

  1. Những nguyên nhân đưa đến “sự khủng hoảng hôn nhân”: Có rất nhiều nguyên nhân cũng như có nhiều cách giải thích về vấn nạn này.

* Yếu tố đầu tiên là kềm chế khả năng sinh sản, đặc biệt là việc sử dụng thuốc ngừa thai gần như mang lại hiệu quả tuyệt đối, và kể từ năm 1970 sự kiện tránh thai này càng ngày trở nên phổ biến hơn. Kể từ đó, các cặp vợ chồng đã có nhiều cách thế để có bao nhiêu con theo như ý muốn cũng như khi nào họ muốn có con.

Phải nói rằng bối cảnh kinh tế và xã hội đã đổi thay rất nhiều: trong những xã hội truyền thống, tỉ lệ tử đã tăng cao. Rất nhiều trẻ thơ đã vào đời rất sớm, trong số này có một số trẻ đã phải già trước tuổi và đã thực hiện chức năng kinh tế để nuôi sống một nhóm người nào đó. Ngày nay, chỉ số tử trẻ con đã được hạn chế; còn trong những gia đình bình dân hay gia đình có điều kiện sống trung bình, việc hạn chế có con là một điều kiện tiên quyết cho sự thành đạt trong xã hội và sự nghiệp (những số liệu thống kê đã cho thấy rõ về sự kiện này).

Kế hoạch sinh sản cũng giúp cho người phụ nữ có thể duy trì lợi tức một cách hiệu quả nhất: những phụ nữ nào mà muốn sinh nhiều con cái thì dần dần năng xuất công việc của họ sẽ kém hơn, bởi họ bắt đầu bận rộn hơn với vai trò làm mẹ, vì thế sẽ ngưng công việc bên ngoài; trái lại, những phụ nữ chỉ muốn có một hay hai con, rất hiếm khi có ba, sẽ dễ dàng thăng tiến hơn trong công việc, nhất là họ có thể duy trì lương bổng được dài lâu, và sẽ không phải gặp trục trặc nhiều so với người phụ nữ thường được cho nghỉ phép nhiều lần vì phải chăm sóc nhiều con nhỏ. Vì vậy, phụ nữ vẫn có thể duy trì được mối quan hệ trong công việc nhưng vẫn có được sự tự do của nữ giới trong đời sống hôn nhân nhờ việc kế hoạch sinh sản vốn ngày nay không có nhiều nguy cơ lắm.

* Yếu tố thứ hai, đó là sự gia tăng công việc của nữ giới; đây là thời đại mà những cô gái trẻ có thể theo đuổi việc học vấn cách dễ dàng hơn nhiều, thậm chí có người theo đuổi chương trình học vấn dài hạn nữa. Để gặt hái được nhiều kết quả từ việc học vấn này, chẳng hạn để có thể hành nghề sau khi đã kết thúc việc học, trước hết họ phải có chân trong thế giới thị trường. Để thành đạt trong công việc chuyên môn của mình, người phụ nữ cần phải gác qua một bên những công việc nội trợ. Để có thời gian cống hiến cho sự nghiệp tương lai của mình, người phụ nữ cần phải rảnh rang chuyện con cái vì chúng sẽ gây rất nhiều phiền nhiễu; họ phải duy trì vị trí nơi công sở, vì thế thông thường họ chỉ muốn có một hoặc hai con mà thôi. Cái khó khăn để duy trì công việc là công việc ấy phải làm sao cũng tương xứng với số con cái để không quá bị ngập đầu với một việc nào đó mà ảnh hưởng đến việc kia.

* Những vấn đề trên đã gây ảnh hưởng không nhỏ trong hôn nhân. Người ta nhận thấy rằng, xã hội đã có một hình ảnh mới về người phụ nữ từ khi sự học vấn mở ra cho họ. Quả vậy, người phụ nữ đi vào môi trường xã hội là do nhiều nguyên nhân:

  • Nguyên nhân tài chính, trong hoàn cảnh kinh tế bấp bênh
  • Lo lắng về hiệu quả sau khi hoàn tất chương trình học vấn
  • Mong muốn được tự do và tự lập
  • Tìm kiếm niềm vui qua công việc cũng như những tương quan trong công việc
  • Không muốn bị gò ép trong vai trò làm mẹ và nội trợ, hoặc có thể vai trò ấy bị xem như là giảm giá, hèn kém.
  • Nhu cầu muốn ra thoát khỏi vai trò làm mẹ và công việc nội trợ càng ngày càng gia tăng

Hình ảnh người phụ nữ đã thay đổi rất nhiều: phụ nữ đã chuyển nhượng vai trò của mình hầu lựa chọn một vai trò khác; hầu hết toàn thể mọi người đã công nhận quyền bình đẳng giữa người nam và người nữ– nhưng có thể vẫn không hoàn toàn là thế trong công việc – Quyền bình đẳng là yêu sách căn bản của nữ giới. Thế nhưng quyền bình đẳng này phải được đặt chỗ nào?

– Trong việc tôn trọng phẩm giá con người: Hình như ở Tây phương, người ta đã thoả thuận với nhau về quan niệm phẩm giá bình quyền của người đàn ông và người phụ nữ, cũng như đã công nhận trên bình diện luật pháp của xã hội và được thể hiện trên bình diện thực tế.

– Trong việc phân bổ công việc, đặc biệt là việc nội trợ: Phẩm giá bình quyền của hai người không có loại trừ sự khác biệt về mặt giới tính trong vai trò và bổn phận của đời sống hôn nhân. Vậy, người ta nhận thấy có sự chênh lệch đáng kể giữa các ý hướng, nguyên tắc, và thực tế. Đúng là trong lịch sử nhân loại, vị trí truyền thống dành cho phụ nữ ít cho phép họ được thể hiện phẩm giá bình quyền này.

Thật thế, mỗi cặp vợ chồng, cũng như mỗi người, đều có thể có quan niệm đúng đắn về quyền bình đẳng trong đời sống hôn nhân, và có thể biểu tỏ thái độ thích hợp nào đó đối với phụ nữ trong thực tế.

v Chung qui, giá trị của đời sống hôn nhân đã được điều chỉnh; những người phụ nữ ấy có thể tự bảo vệ chính mình, đây cũng là quyền lợi của họ vậy. Vì thế, mô hình truyền thống đã bị loại bỏ.

v Một giá trị khác cũng xuất hiện: giá trị đó thuộc về tình yêu: giá trị này trở thành tiêu chuẩn duy nhất cho sự kết hợp giữa hai người, tuy nhiên sự kết hợp này có thể mang hoặc không mang chiều kích hôn nhân. Tình cảm-yêu thương này trở thành một tiêu chuẩn Nền Tảng. Thế nhưng với lý do này, tình yêu thương biểu hiện một sự mơ hồ rất lớn:

– Một mặt, tình yêu này làm nảy sinh ra tính chủ quan và căn tính đặc thù bên trong, dưới sự tác động của tình cảm, sẽ mở ra một tương lai hoàn toàn mù mờ mà đương sự không thể biết trước được; quả vậy, kẻ lạ mặt mà tôi sẽ gặp này có thể chiếm một chỗ rất lớn trong căn tính của tôi, và nó sẽ hiển lộ ra bên ngoài để điều chỉnh lại chính con người tôi hoặc nó sẽ vạch mặt tôi. Vì thế, thật là hữu ích biết bao để tôi không tự dối lòng mình, và khoảng khắc khi tôi gặp thấy nó lúc ban đầu sẽ là khoảng khắc mà tôi có thể bắt đầu nhìn lại bản thân và trù định về cách thức phân định của tôi để xem xem người kia có thật sự tương hợp với căn tính đặc thù của tôi không. Vì vậy, người phối ngẫu cần phải biết “chọn lọc.”

– Mặt khác, tầng vô thức khổng lồ và căn bản này sẽ cản trở sự nhận thức của đương sự về tình yêu chiếu theo những gì thuộc về tình cảm vốn nảy sinh từ việc gặp gỡ và tương quan với người khác, và tầng vô thức này sẽ được người kia gặp gỡ và rồi đón nhận một cách trọn vẹn. Trong tâm tưởng, chúng ta thường cho rằng “tình yêu thì trái ngược hoàn toàn với sự chọn lựa,” nên từ đó người phối ngẫu đã tự gò ép mình vào ý tưởng ấy, như là một biểu hiện tức thì, mà người ấy sẽ không còn có cơ hội phản tỉnh.

“Tình thương yêu được khắc sâu vào trong tính cách bình thường của tiến trình đồng nhất tính nơi con người” (J-C Kaufmann), đây là một sự “khuyếch trương cái ngã vị” mà, trong trường hợp tương quan hỗ tương, sự khuyếch trương này cho phép thiết lập nên một kiểu khế ước đặt trên nền tảng của sự trao đổi tình cảm hỗ tương (cũng như những thứ khác nữa). Cũng vậy, trong căn tính người yêu sẽ được củng cố, và sẽ nhận được một sự nâng đỡ trong việc xây dựng nhân cách của mình vốn được củng cố nhờ vào một người nào đó.

Vấn đề ở đây là điều gì đúng và điều gì không đúng khi cả hai người phối ngẫu đều lãnh nhận vai trò của xã hội. Vì thế, người ta muốn tìm lại sự tôn trọng quyền tự lập và tự do nơi mỗi người, tính độc lập là biểu hiện sự bình quyền và bảo đảm cho người phụ nữ: khi trong trường hợp mối dây yêu đương bị phá vỡ, thì người phụ nữ sẽ không còn thấy mình bị thua thiệt. Đây là lý do tại sao những người bảo vệ quan điểm này đã “bình đẳng” phân bổ công việc nội trợ cho cả vợ lẫn chồng, công việc của hai người đều mang tính bổn phận cả, việc đầu tư vào vai trò làm cha mẹ cũng ít bận rộn hơn, và đây là chính sách không có cam kết về mặt pháp chế.

Thời gian ban đầu luôn luôn cần được ý thức một cách thực tế hơn trong đời sống hôn nhân: vấn đề ở đây là làm sao thiết lập nên những dữ kiện căn bản về ý thức trách nhiệm trong công việc đã được thoả thuận trong đời sống hôn nhân; căn tính nơi người này cần phải được đối diện trực tiếp với căn tính nơi người kia. Cần thiết phải học biết sống cùng nhau và hiểu ý nhau , điều này trái ngược với hình ảnh mà người ta đã diễn tả về tình yêu như ở trên.

Từ sự đổ vỡ của những cặp vợ chồng ngày nay khi họ đặt quá cao về cảm tính, họ sẽ gặp khó khăn khi đối diện với những va chạm không thể tránh được trong đời sống hằng ngày của hai người.

* Chúng ta cũng cần nói thêm rằng, tự bản chất con người vốn mang tính chủ quan. Ngày nay tình cảm được quan niệm như là đối nghịch với chiều kích xã hội về hôn nhân: tình cảm đã bị bỏ lỡ, nó chỉ liên quan đến cá nhân tôi và người bạn tình của tôi mà thôi, xã hội cũng chẳng cần biết đến nó làm gì; người ta không đồng ý những tương quan tình cảm mà được định nghĩa bởi bất cứ thể chế nhà nước nào.

  1. Sự khủng hoảng của đời sống hôn nhân? Nếu người phụ nữ đòi quyền tự do cho mình, thì cũng có nghĩa là chỉ số hôn nhân sẽ giảm thiểu và số ly dị gia tăng. Vậy phải chăng người ta có thể suy ra rằng, đời sống hôn nhân đang gặp khủng hoảng không? Người ta bắt đầu đưa ra nhiều lối phân tích và giải thích về vấn đề này. Thế nhưng, ngày nay các nhà xã hội học đã trả lời không một chút do dự là không phải thế: phần lớn mọi người vẫn duy trì lý tưởng và khát khao đời sống lứa đôi; lối phân tích sống động này về con người (lưu ý đến khoảng thời gian dài) cho thấy rằng đôi lứa vẫn tham khảo đời sống nơi những người trưởng thành. Tuy nhiên, đối với sự khác biệt này mà đời sống hôn nhân được dệt nên qua nhiều giai đoạn; từ đo, nhiều giai đoạn vốn là tạm thời và ngắt quãng sẽ đan kết vào nhau một cách đơn lẻ. Hôn nhân đang gặp khủng hoảng, có lẽ điều này không thể chối cãi được nữa; bấy nhiêu thôi cũng làm cho người ta chẳng muốn đề cập đến các cặp hôn nhân. Thế thì cần phải định nghĩa lại sao cho rõ ràng về điều mà người ta gọi là “khủng hoảng” của đôi vợ chồng. Vậy, nếu người ta biết được mô hình truyền thống vốn vững bền và độc đáo đã bị đổ vỡ thì người ta có thể nói về sự khủng hoảng rất ư là hay. Thế là, người ta nhận thấy sẽ còn có nhiều mô hình vợ chồng nữa.
  1. Sự vận hành mới của đôi vợ chồng
  1. Sự hình thành đời sống vợ chồng: ngày nay, đời sống hôn nhân đã biểu tỏ đặc tính qua bản chất có tiến trình. Hôn nhân “truyền thống” đã trở nên ăn khớp nhịp nhàng với nhau: đó là, bước vào tình trạng của người trưởng thành, kết hôn, sống đời vợ chồng, thực hiện hành vi tính dục, và tách khỏi môi trường gia đình gốc. Ngày nay tình trạng truyền thống này không còn nữa. Thông thường, thật là khó để nói rằng khi nào đời sống vợ chồng được coi như đã khởi sự, bởi chính việc hình thành nên đời sống vợ chồng xem ra như chậm chạp vì có nhiều giai đoạn liên tiếp nảy sinh. Các tiêu chuẩn truyền thống trước kia bây giờ không còn ăn khớp với nhau nữa. Đây là sự kết hiệp được thiết lập nên “từ những bước nhỏ” (J-C Kaufmann). Theo như nhiều người nhận biết, vấn đề là ở chỗ xác nhận khả năng thực hiện công việc kết hợp ấy của đời sống hôn nhân với người nào đó. Người ta không có tin tưởng ngay vào khoảng thời gian ấy, họ muốn hưởng nếm những cái bảo đảm trước; nhất là người phụ nữ muốn được duy trì sự tự do tự lập, họ muốn duy trì quyền tự lập và lương bổng của bản thân, đặc biệt là khi gặp phải trường hợp “cuộc sống không trôi chảy”; ai ai cũng muốn tự do cả.
  1. Sự vận hành của đôi vợ chồng:

* Trong hôn nhân truyền thống, người chồng là động cơ vận hành chính của vận mệnh người phụ nữ. Thực vậy, trong phạm vi hôn nhân, người phụ nữ không đánh giá cao mấy về thành quả học tập vì họ không phải đi làm việc. Ngược lại, phụ nữ lại chấp nhận cho chồng đề cao việc học vấn của chồng, nên người chồng có thể được miễn trừ những công việc nội trợ và giáo dục con cái. Nhưng ngược lại, nhiệm vụ của chồng là đóng góp vào sự thu nhập kinh tế cho gia đình. Mô hình này là một mô hình theo kiểu phối hợp (tất cả mọi sự đều có thể được chung chia tuỳ theo giới tính đặc thù của mình hầu cùng nhau dựng xây mái ấm hạnh phúc). Như vậy, mô hình này được xem như là chân dung của người vợ mẫu mực, kín đáo nhưng hiệu quả, không bị gò bó nhưng tận tuỵ tận tâm.

* Trong hôn nhân hiện đại, người phụ nữ muốn mình là động cơ vận hành chính đối với vận mệnh riêng của mình. Sự triển nở nhân vị là một giá trị lớn cần phải kể đến: với quan điểm này, nhìn chung lại thì chúng ta có thể nhận thấy rằng đời sống hôn nhân ở đây không phải là cái gì tiêu cực, vì hôn nhân hiện đại đã và đang đặt lại sự tương quan trong đời sống vợ chồng. Vì vậy, ở đây quyền tự do tự lập có thể được bảo đảm giữa hai vợ chồng, và mỗi người đều có chốn riêng tư nhất của bản thân mình (chẳng hạn như công việc, quyền, những mối tương quan cá nhân…) mà không ai có thể xâm phạm. Trong trường hợp mối tương quan vợ chồng bị đổ vỡ, người phụ nữ sẽ ít bị thiệt thòi hơn là khi họ sống với mô hình truyền thống (đặc biệt là về mặt thu nhập kinh tế). Theo như các dữ liệu thống kê, các quả phụ thuộc mô hình truyền thống hầu như luôn luôn phải đương đầu với hoàn cảnh nghèo khổ trong những năm sau khi chồng không còn, hoặc là họ phải đi thêm bước nữa.

* Một thực tế tinh vi: theo lý thuyết, các kiểu mẫu hôn nhân xem ra rất rõ nét, và chúng có thể ảnh hưởng lẫn nhau. Thế nhưng trên thực tiễn, mỗi cặp vợ chồng đều có “cách thức ứng xử độc nhất vô nhị” của mình mà chẳng cặp nào giống cặp nào (F. de Singly). Cũng vậy, người ta nhận thấy rằng:

– Thời gian nội trợ của người phụ nữ trong nhà luôn luôn bị chiếm nhiều hơn là thời gian làm việc của người đàn ông. Cũng thế, khi hai người đều làm việc và khi cả hai đều tán thành việc phân bổ những công việc cho nhau để sao cho bình đẳng nhất, thì luôn luôn người phụ nữ sẽ là người có khuynh hướng đảm trách việc nhà hơn, họ giỏi lo liệu công việc trong nhà hơn cũng như hợp với sở trường của họ hơn. Trong cuốn Công Việc và Đức Tính (Le Travail et la Vertu) của K. Blunden (Paris: Payot, 1969) có dòng chữ đề tặng là “mến tặng tất cả những cô đang ở trong hoàn cảnh thuận lợi nhưng đôi lúc lại gặp ít nhiều khó khăn như kỹ thuật đánh máy chữ cách bừa bãi hoặc muốn sử dụng chiến thuật sao cho có thể hòa giải với chồng, hoặc bất chợt có một lúc nào đó tự hỏi rằng, không biết món trứng ốp-la có đủ cho bữa tối nay không.”

– Công việc của người đàn ông lúc nào cũng đi bước trước so với công việc của người phụ nữ vì người đàn ông thường là người kiếm tiền nhiều hơn. Cho dù hai người đều có học vị như nhau và công việc giống nhau, người đàn ông bao giờ cũng kiếm tiền nhiều hơn người phụ nữ độc thân, và người phụ nữ độc thân lại kiếm tiền nhiều hơn người phụ nữ đã có chồng. Thế là, F. de Singly đã đi đến kết luận: “người phụ nữ nội trợ trổi vượt hơn người đàn ông nội trợ, người phụ nữ nội trợ trổi vượt hơn người phụ nữ làm việc bên ngoài, và người đàn ông làm việc bên ngoài trổi vượt hơn người phụ nữ cũng làm việc bên ngoài như thế.” Xét về mặt nghề nghiệp, đời sống hôn nhân luôn luôn thể hiện sự lợi ích cho cánh đàn ông, còn đối với cánh phụ nữ là một cái giá phải trả.

  1. Chu trình hôn nhân: Chúng ta nhớ lại ở trên, một trong những khó khăn hiện nay khi định nghĩa đời sống vợ chồng – mà J-C Kaufmann đã gọi là “thiết lập một mặt phẳng trên các ngưỡng cửa”, chẳng hạn như sự hình thành nên đời sống hôn nhân qua các giai đoạn – đó là, người ta chẳng biết chính xác lúc nào thì đời sống vợ chồng bắt đầu. Những ngưỡng cửa ấy xem ra không thể nào nhận biết được. Cũng thế, đối với cặp vợ chồng nào đó, thật là khó để mà xác định rằng cặp vợ chồng ấy đang ở trong mức độ của giai đoạn hôn nhân nào. Cấp độ mà cặp vợ chồng nào đó đang cùng nhau tạo nên thì vô cùng khác biệt từ cặp này đến cặp khác, đó là không kể đến khả năng có cặp tụt lùi lại phía sau…

Theo Kaufmann, người ta có thể phát hiện ra từng giai đoạn qua điều mà người ta gọi là “chu trình hôn nhân”:

* Giai đoạn của những khám phá: khoảng thời gian ban đầu này được đặt trọng tâm trên tình yêu thương và mọi cảm xúc phát sinh: đó là khi người này nhận thấy người kia có thể tái xác định căn tính đặc thù của bản thân với một phong cách khác, trong một tương lai khác mà chính nơi đó người này đã được người kia nhắm tới. Khi đã đặt trọng tâm trên một người cụ thể nào đó, tình cảm sẽ phát sinh và sẽ gây ấn tượng cho người kia từ bên ngoài, đương nhiên là những tình cảm này được đặt trọng tâm trên chính cái tôi của mình và trên sự khám phá lẫn nhau mà họ đã thực hiện từ một căn tính khả thể mới lạ.

Nhưng thời gian này cũng là thời gian của sự khám phá được thực hiện từ người kia và cũng từ mối tương quan lẫn nhau, để qua đó họ có thể cùng khám phá, xây dựng và hướng dẫn nhau.

* Thời gian lưỡng lự: thời gian này được đặt trọng tâm trên mối tương quan liên vị, đây là mối tương quan mà người ta chỉ muốn nhắm đến tình cảm và gạt đi những gì vốn đã được sắp xếp thương lượng giữa hai người với nhau cũng như cả sự phân bổ vai trò của đôi vợ chồng. Người này sẽ thích ứng với người kia. Người ta không muốn nhận ra những khác biệt nơi nhau, thế nhưng những khác biệt này thật là cần thiết biết bao. Nhưng ít nhiều gì trong ý thức thì người này cũng sẽ tìm hiểu người kia. Họ lượng giá mọi nguy cơ cũng như vận may trong suốt quá trình tương quan tình cảm đôi lứa. Mọi cử chỉ và lời nói cũng chỉ là bấy nhiêu dấu hiệu mà họ cũng sẽ biểu tỏ như thế thành những dạng thức chung chia đời vợ chồng sau này mà thôi. Đây cũng là thời gian rất bấp bênh cho cả hai trong tương lai: vậy thì thời gian bấp bênh này có thể xảy đến không? và do từ thái độ nào? Dần dần sự sắp xếp trên cũng sẽ tiến triển tốt đẹp mà cả hai không mảy may nhận biết được.

* Thời gian thư giãn: Dĩ nhiên khi mà cả hai không mảy may nhận biết được điều đó, thì một số thói quen nào đó dần dần sẽ bị đóng băng mà có thể không biết trước được; vai trò của hai người được định hình nhờ trải nghiệm và đời sống vợ chồng rồi sẽ tự tổ chức lấy. Ít nhiều gì mỗi người cũng phải thiết lập lại căn tính mới của chính mình. Mọi tình cảm, cũng như cảm xúc, sẽ có khuynh hướng tự bào mòn, và thay vào đó là sự gắn bó thâm sâu hơn, nhưng ít dữ dội hơn, mà đôi khi hai người cảm thấy sự gắn bó này ra như nhàm chán trong tình yêu. Nguy cơ rơi vào thói quen là thực tế mà nhiều đôi lứa ngày nay không sao tránh khỏi. Lý tưởng hợp nhất đã bị biến mất vì lý tưởng này sẽ không còn nữa thông qua tính bền vững nơi hai căn tính riêng biệt. Có thể khi đã khám phá ra điều này, hay qua những khi trao đổi tương quan liên vị lẫn nhau, họ sẽ cảm thấy bất mãn. Trong trường hợp này, có thể nảy sinh ra sự xung đột kéo theo từ việc tái thẩm định qua những cuộc trao đổi chung chia ấy; hoặc nữa, người ta có thể đi tìm sự bù trừ trong những ảo mộng, hay qua sự tất bật của công việc, hoặc thậm chí có thể đi tìm một tương quan mới khác khởi lại từ đầu hầu lấy lại tiến trình của đời sống lứa đôi.

  1. Chia tay tự nguyện của mối tương quan đôi lứa: ngày nay sự đổ vỡ của mối quan hệ đôi lứa biểu hiện như là một minh chứng hiển nhiên, vì thể chế hôn nhân không còn đóng vai trò thay thế tình yêu trong mối tương quan hôn nhân như trước đây nữa; ngày nay có nhiều cặp vợ chồng đặt trọng tâm trên tình cảm yêu thương mà không hề biết dùng phương thế nào để củng cố hôn nhân hoặc hướng đến lý tưởng khi đương đầu với khủng hoảng. Trên bình diện pháp chế và não trạng của phần lớn mọi người, người ta đã bình thường hóa việc chia tay trong mối quan hệ vợ chồng. Theo dữ liệu thống kê, người ta quan sát thấy rằng, khi người phụ nữ đi làm việc bên ngoài sẽ bị căng thẳng thần kinh hơn, nhưng lại ít bị trầm uất hơn những người phụ nữ nội trợ “vốn thường bị người đời chỉ trích là được sung sướng hạnh phúc, hay chẳng làm được tích sự gì” (de Singly).

Hơn nữa, việc xây dựng và củng cố mối dây tình yêu đòi hỏi phải có thời gian và có nội lực mà hai người không phải lúc nào cũng sẵn sàng chịu nương tựa vào nhau, vì “lúc nào cũng tất bật vội vã,” và không phải lúc nào họ cũng nhận thấy tầm quan trọng của thời gian dành cho nhau vốn cần thiết.

  1. Sự thoả hiệp: hợp nhất một cách tự do: Sự hợp nhất một cách tự do hình thành nên một thoả hiệp giữa hai người với nhau:

– Giữa hai phái tính: những người vốn ủng hộ cho lối sống hợp nhất nhưng lại rất tự do là những người rất hay chỉ trích nhất về sự hợp nhất trong hôn nhân: chẳng hạn như chỉ có một thu nhập duy nhất mà người chồng nắm trọn quyền để cung ứng cho gia đình, còn người phụ nữ chỉ có thể đóng góp vào khoản thu nhập duy nhất ấy bằng việc nội trợ và giáo dục con cái trong gia đình mà thôi. Để sống một cách thực tiễn hơn, họ muốn đời sống hôn nhân có sự phân bổ công việc sao cho bình đẳng nhất có thể. Điều này thật là an toàn cho người phụ nữ khi phải gặp trường hợp chia tay. Khi xem tình yêu là quan trọng hơn, nhưng thực tế lại chẳng bảo đảm gì cho cuộc sống, thì người ta cho rằng người phụ nữ làm việc để chu cấp cho nhu cầu bản thân trong những hoàn cảnh thất bại sẽ như là một bằng chứng tình yêu.

– Giữa các thế hệ: Theo như chuẩn mực xã hội vốn không ngừng được gầy dựng và củng cố, người ta chỉ kết hôn với nhau khi đã hoàn tất việc học vấn và cuộc sống đã được sắp đặt ổn thoả; người ta cũng chứng tỏ khả năng mình xem có thể chu cấp cho những nhu cầu và duy trì mái ấm của gia đình tương lai của mình không đã. Chuyện gì sẽ xảy ra khi chương trình học vấn của họ kéo dài đằng đẵng, rồi cũng đến lúc tuổi thì mỗi lúc mỗi cao dần trong khi họ đang có giao kèo hôn nhân với nhau. Hơn nữa, khi tâm thức mỗi lúc một tiến triển, và khi lứa tuổi hậu thiếu niên muốn chứng tỏ đặc tính của mình trước mọi người qua việc phát triển tính dục sớm nơi mình mà đôi khi thật khó lòng có thể cản ngăn được chúng, thì con người thời đại càng quan niệm không đúng và thậm chí càng bóp méo đời sống kết hợp trong hôn nhân. Thông thường cha mẹ chấp thuận tình trạng sống chung của con cái mình khi chúng chưa hoàn tất chương trình học vấn, vì rằng giá trị tiên quyết trong mọi gia đình chính là gầy dựng vốn liếng cho con cái mình bằng việc học hành: “Tầm quan trọng của công việc chiếm ưu thế mạnh hơn là tầm quan trọng của hôn nhân” (F. de Singly).

Các nhà xã hội học đã thử phân loại những dạng thức khác biệt của tình trạng sống chung như sau:

– Tình trạng sống chung lý tưởng (la cohabitation idéaliste – khi hôn nhân được xem như là một nguy cơ bình thường hóa đời sống vợ chồng vốn chỉ sống chung với nhau khi đã kết hôn mà thôi).

– Tình trạng sống chung mang tính chống chủ nghĩa thủ cựu (la cohabitation anticonformiste), qua việc đi ngược lại với xã hội.

– Tình trạng sống chung cẩn trọng (la cohabitation de prudence – tức là hôn nhân thử nghiệm).

– Tình trạng sống chung trong thời gian đính hôn (la cohabitation de fiançailles), khi hôn nhân đã được quyết định và chấp thuận nhưng chưa được phép sống chung.

 

III. HỘI THÁNH KITÔ GIÁO NÓI GÌ ?

  1. Hôn nhân Kitô giáo
  1. Duy trì mối tương quan của hôn nhân Kitô giáo: Thật lạ lùng thay, chỉ số hôn nhân Kitô giáo đã giảm rõ rệt nếu xét theo tỉ lệ, nhưng xét về mức độ thì thấy ít nghiêm trọng hơn là tất cả mọi trường hợp hôn nhân khác. Hay nói cách khác, người ta vẫn thường cử hành Bí Tích Hôn Nhân trong các thánh đường, và không còn cho rằng hôn nhân Kitô giáo đã bị giảm sút trên bình diện hành đạo một cách hợp thức nũa. Việc kháng cự không theo hôn nhân Kitô giáo cũng không làm mất đi ý nghĩa hôn nhân nơi những cặp hôn nhân ngày nay. Vậy, chúng ta cũng có thể nói được rằng nghi lễ hôn phối vẫn còn được duy trì, nhưng đã được cải cách để mặc cho nghi lễ một ý nghĩa khác, hầu có thể phù hợp với sự tiến triển tâm trí của con người ngày nay. Thực thế, chức năng hôn nhân này nay đã thay đổi: Trong khi, trước kia, hôn nhân Kitô giáo truyền thống đã khởi sự đời sống vợ chồng, và được xem như là một đính ước cốt yếu giữa hai người; ngày nay, kiểu mẫu hôn nhân ấy sẽ chấm dứt giai đoạn hình thành tình yêu của hai người, hoàn thiện việc xây dựng lũy tiến (la construction progressive).

Ngoài ra, nghi lễ Kitô giáo được coi như là một nghi lễ có khả năng biểu tỏ ý nghĩa trọn vẹn đối với lời kết ước nhất: có thể vì lẽ chính tự nguồn cội của nghi lễ, nhưng cũng có thể do nghi lễ ấy vừa trang nghiêm vừa long trọng, nên có khả năng mời gọi và khích lệ tất cả mọi thế hệ qua mọi thời. Nghi lễ này sẽ tháp nhập vào bất cứ nền văn hóa nào mà người ta có thể tìm thấy nơi ấy có một sự tiếp nối truyền thống; nhưng không nhất thiết người ta cần phải sống truyền thống ấy một cách đầy đủ. Người kết hôn sẽ được dẫn đến để giới thiệu cho cả cộng đồng được biết giây phút quan trọng nhất đời mình, và việc này sẽ làm cho họ như tự buôc mình vào cộng đồng này. Thông thường hai người chấp thuận ý tưởng là sống với nhau “mãi mãi,” sống “vâng phục” qua nghi thức Rửa Tội, sống theo giáo lý Hội thánh và sống Thánh lễ. Hơn nữa, cũng như trong tất cả mọi nghi lễ Kitô giáo, nghi lễ kết hôn có đặc điểm là “mềm dẻo,” (plasticité) hay nói cách khác là có tính uyển chuyển nào đó, mà có thể cho phép đôi hôn nhân gặp lại nhau nơi thánh đường.

  1. Hội thánh trần trụi (au dépourvu): Yêu sách trên có vẻ hơi lờ mờ đối với đa phần đôi hôn nhân trẻ; với họ, đôi khi Hội thánh hơi bị khuất bóng, biến mất dạng. Họ không biết bày tỏ thái độ tôn kính nào cho phải trước lời mời gọi hãy chung sống đời hôn nhân như Hội thánh mong muốn, nhưng đặc biệt là họ không hề giảm giá ý nghĩa Bí Tích hôn nhân. Đôi khi, họ rất ý thức về khoảng cách đáng kể giữa “sự trao tặng” và “yêu sách,” và đây là những vấn đề lớn đặt ra cho các vị làm mục vụ. Chúng ta sẽ đề cập đến vấn nạn này sau.

Chúng hãy nhận rõ khó khăn ấy để có thể hiểu và thông cảm Hội thánh hơn: những lời lẽ trong ngày lễ kết hôn như “kết hợp,” “bí tích,” “tự do,” “trung thành,” cho đến hai chữ “hôn nhân” không phải lúc nào cũng cùng một ý nghĩa trong địa hạt nhận thức của những người tin cũng như người không tin, và có thể cả những cặp hôn này đến đôi hôn nhân khác. Không phải ai ai cũng hiểu những danh từ đó như nhau cả. Thế thì làm sao có thể xử lý điểm khác biệt này? Làm sao có thể làm cho các đôi lứa hiểu được ý nghĩa đích thực của hôn nhân là gì theo như Hội thánh mong muốn?

Thiết nghĩ chúng ta cũng nên đề cập đến sự khác biệt đang gia tăng của những tình huống hôn nhân: hôn nhân hỗn hợp, tái hôn, thiếu niềm tin,… đây là cảnh huống vốn gây khó chịu cho các linh mục đang làm mục vụ hôn nhân.

  1. Nên Có Chăng Một Khoa Nhân Chủng Học Kitô Giáo Về Hôn Nhân?
  1. Những xáo trộn của thế kỷ XX: đó là, quan niệm của Kitô giáo về hôn nhân đã thay đổi rất nhiều, nhất là trong giới Công giáo. Sự thay đổi này chính là bước chuyển biến từ quan niệm hướng đích trước kia (LA finalité du mariage = la procréation – mục đích chính yếu của hôn nhân là việc sinh con đẻ cái) đến quan niệm của thuyết nhân vị ngày nay: sự tiến hóa được phê chuẩn

đặc biệt trong hiến chế Gaudium et Spes, số 48, của Công Đồng Vatican II. Qua đó, hôn nhân được định nghĩa là “cộng đoàn sống và yêu” , được thiết lập trên mối tương quan liên vị giữa người nam và người nữ.

Trong một thái độ khác, thuyết nhân vị thuộc về truyền thống Kitô giáo, vốn đã có từ thời Trung Cổ, thì Bí Tích hôn nhân nằm ngay trong sự chấp thuận của hai cá nhân tự do và ý thức. Theo Kitô giáo, con người ấy là một thụ tạo độc nhất vô nhị và bất khả chuyển hoán. Thuyết nhân vị này là đặc trưng của nhân chủng học Kitô giáo. Tuy nhiên, vì do những nguyên nhân văn hóa nào đó, nhãn quan đó đã bị che khuất bởi quan điểm pháp lý và luân lý quá chặt, nên chi không hướng đến trọng tâm là tình yêu. May mắn thay, việc tái khám phá chiều kích nhân vị trong thời đại ngày nay đã cho phép chúng ta nối lại truyền thống này và còn có thể tiến xa hơn nữa trong việc hiểu biết con người trên bình diện nhân chủng học.

  1. Sự hòa hợp các giá trị đương thời nhờ Hội thánh: Quả thế, Hội thánh đã nhìn nhận và đón nhận một số giá trị đương thời nào đó một cách thật tích cực: chẳng hạn, về vị trí và vai trò của người phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội (như quyền bình đẳng phái tính), cũng như về quyền bình đẳng về phẩm giá nơi hết thảy mọi người.
  1. Duy trì sự khác biệt nơi phái tính: Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể dễ dàng nhận thấy rằng Hội thánh đã phản ứng ngược lại đối với một số vị trí nào đó trong xã hội mà chúng ta đang sống, chẳng hạn như không thừa nhận hành động hoán chuyển phái tính (l’interchangeabilité des sexes); Hội thánh ưa bàn luận về tính bổ xung bổ trợ hơn, tính bổ xung bổ trợ này sẽ được đặt nền trên sự hiểu biết tính đặc thù của phái tính nơi mỗi người trong đời sống hôn nhân, tính đặc thù này vẫn không thêm hay bớt gì trong sự bình đẳng của con người.

– Vì mỗi người đều cần phải được tôn trọng, thừa nhận, và đón nhận quyền bình đẳng phẩm giá của nhau, vì thế chúng ta có thể nói được rằng tính đặc thù ấy không bao giờ đồng nhất hay có thể hoán chuyển phái tính. Qua đó, chính sự khác biệt phái tính này mới là điều quyết định. Do đó, từ sự phân biệt những trách nhiệm, vốn được đặt nền trên việc nhận biết những khả năng thích hợp nơi mỗi người, chúng ta có thể nói về những ơn gọi theo ngôn ngữ thần học như sau:

* Nói chung, phong cách thích hợp nhất cho người phụ nữ trong mối tương quan với người khác chính là trở thành “người phát ngôn trong các tương quan với thế giới bên ngoài” của đôi vợ chồng.

* Ơn gọi làm mẹ (son charisme maternel) ngay tự bản chất sẽ chuẩn bị cho người phụ nữ biết quan tâm đến những âu lo của người khác: không chỉ trong gia đình mà thôi, nhưng còn trong mọi nhu cầu của hết thảy mọi người. Rõ ràng ơn gọi làm mẹ của người phụ nữ là không thể chối cãi được, dù rằng họ không thực sự làm mẹ theo nghĩa sinh học. Đây chính là ơn gọi mà thúc đẩy người phụ nữ biết trợ giúp mọi người, và hơn thế nữa, họ còn nhận thấy trong người đàn ông mạnh mẽ nhất là một đứa trẻ yếu ớt vẫn cần đến sự giúp đỡ của họ. Trái lại, người đàn ông không có bản năng làm cha: vì ngay tự bản chất, người đàn ông mang tính chinh phục, phiêu lưu và kiến thiết (P. Evdokimov).

Qua bí tích hôn nhân, người ta nhận thấy có sự hợp nhất giữa hai ơn gọi vốn được bổ túc lẫn nhau, cũng như một sự nhận biết chung nhất nơi hai người.

– Nhân chủng học Kitô giáo không tách khỏi thần học nơi mình: nếu đôi hôn nhân cho việc nhập thể của Thiên Chúa qua Đức Giêsu là quan trọng, đôi hôn nhân sẽ khắc sâu biến cố quyến định này vào lịch sử giải phóng con người mình – đó là biến cố nhập thể, trong đó bao hàm toàn bộ mầu nhiệm phục sinh – và những biến cố này sẽ dần dần được nhận thấy ngay trong đời sống hôn nhân mỗi ngày của mình. Có thể nói được rằng, từ đó, đôi hôn nhân sẽ khắc ghi những nguyên tắc ấy vào trong chương trình của Thiên Chúa, và chương trình của Thiên Chúa cũng sẽ qui hồi về họ hầu mời gọi họ hãy cùng nhau đáp trả lại cách tích cực trong tương quan với Ngài. Vì thế, nếu đẩy cho đến tận cùng, hôn nhân Kitô giáo có một mục đích “siêu vượt khỏi trần thế” này (extra-terrestre), một ý nghĩa linh thánh vốn siêu vượt khỏi thực tại bình thường của trần thế hay loài người.

Nhân chủng học Kitô giáo cũng bày tỏ cùng một quan niệm như thế về hôn nhân qua dạng thức của ba yêu sách: duy nhất, không tách lìa, và mở toang trước cuộc sống (l’unicité, l’indissolubilité, et l’ouverture à la vie). Sự duy nhất và không tách lìa mang tính kết hiệp, do bởi trong hôn nhân, người ta chỉ được quyền chọn một người duy nhất và cho trọn cả cuộc đời. Vấn đề là, làm sao có thể tháo gỡ xung năng dục ra khỏi bản năng con người để định vị trên một cá nhân duy nhất mà thôi. Vấn đề quan trọng ở đây chính là lòng trung thuỷ, mà qua đó, đôi hôn nhân phải xử lý làm sao khi tương quan tình cảm phối ngẫu mỗi lúc một trở nên nhàm chán và tâm trí của nhau càng lúc càng phát triển. Nhưng lòng chung thuỷ chính là sự trung thành của lời đã nói và đã trao tặng, như đối với con người thời đại hôm nay thì họ chẳng bao giờ dám đặt để cuộc đời mình trên những cái không được bảo đảm cho lắm: Lòng trung thuỷ chính là lòng tin (la fidélité est confiance), chứ chẳng phải là cái bảo đảm nào: đây chính là một hành vi siêu phàm nhưng đầy nguy hiểm, và cũng là một tự do tuyệt vời.

Cũng như trong ngày kết hôn, tất cả mọi sự đều cần phải được thực hiện.

KẾT LUẬN

Tất cả những dữ liệu tổng hợp rất vắn gọn trên có thể cần được khảo sát sâu thêm và chính xác hơn bởi chúng ta, những con đẻ của thời đại hôm nay: Thiết nghĩ rằng, vẫn còn rất nhiều điều cần phải trình bày trên bình diện xã hội học và tâm lý học về hôn nhân, ở trên chúng ta chỉ lướt qua một số khía cạnh trong hôn nhân mà thôi; có điều quan trọng là, chúng ta là những Kitô hữu, cho nên những dữ kiện ở trên cần được nhìn trong tinh thần hôn nhân Kitô giáo, nếu không chúng ta sẽ có nguy cơ không hiểu gì những con người đương thời và cũng không thể rao giảng Tin Mừng về hôn nhân Kitô giáo cho những người khác.

Cái nhìn thoáng qua và bao quát trên về hôn nhân được đặt trong sự bối cảnh thích ứng với một dữ liệu khác về chính trị xã hội trước kia (đó là, cuối thế kỷ XVIII cho đến thế kỷ XIX): đây là thời kỳ tục hóa hôn nhân. Sự gia tăng các thế lực của những Nhà nước hiện đại, và đặc biệt là ở Pháp, như Đảng Cộng Hòa, đã khẳng định thẩm quyền của Nhà nước trên đời sống hôn nhân bằng việc nhân danh công ích. Từ đó, hôn nhân dân sự (vốn khác với hôn nhân Kitô giáo) đã được khai sinh. Những tương quan trong hôn nhân dân sự với hôn nhân Kitô giáo không phải là không có vấn đề; vì liệu rằng người ta, khi đứng trên bình diện luật pháp dân sự, và chúng ta, đứng trên bình diện luật lệ Kitô giáo, có thể hoặc có khả năng bàn về cùng một điểm nào đó không? Thiết nghĩ câu trả lời có lẽ không đơn giản…

–––––––––––

Để hiểu thêm, xin xem:

– P. ADNES: “Mariage et vie chrétienne”, Dictionnaire de Spiritualité” X, col. 355-388.

– M. BOZON: “Sociologie de rituel de mariage”, Population 2, 1992, 409-33.

– C. CICCHELLI-PUGEAUT et V. CICCHELLI: Les théories sociologiques de la famille, coll. “Repères”, La Découverte, Paris 1998.

– J. – C. KAUFMANN: Sociologie de couple, PUF, coll. QSJ n 2787, Paris 1993.

– X. LACROIX: Homme et femme. L’insaisassable différence, Paris Cerf.

– H. LERIDON et C. VILLENEUVE-GOKALP: “Les nouveaux couple: nombre, caractéristiques et attitudes”, Population 2, 1988, 331-73.

– R. MOLDO: “Les jeunes et la fidélité. Approche psycho-sociologique et lily icos cialis online pastorrale des 15/25 ams”, Revue de pfizer viagra coupons droit canonique 43/2, juillet-décembre 1993, 223-49.

– L. ROUSSEL: “deux décennies de mutations démographiques (1965-1985) dans les pays industrialisés”, Population 3, 1987, 429-47.

– N.SEGALEN: Sociologie de la famille, coll. “U”, Armand Colin, Paris 1996.

– F. de SINGLY: Fortune et infortune de la femme mariée. Une sociologie de la vie conjugale, coll. “Economie en liberté”, PUF 1987, 3 éd. 1993.

– F. de SINGLY: Sociologie de la famile contemporaine, Nathan 1993.

– F. de SINGLY (dir): La famille. L’état des savoirs, La Découverte, Paris 1997. Particulièrement les chapitres I: “La constitution de la famille” et ll: “Vie de famille”.

– C. VILLENEUVE-GOKALP: “Du mariage aux unions sans papiers: histoire rédente des viagra light switch buy transformations conjugales”, Population 2,265-97.

– G. VOGELEISEN: “Le couple dans son environment psychologiue”, Colloque sur le mariage, Straabourg 1980, Revue de droit canonique.

Leave a comment »

ĐỐI VỚI GIÁO HỘI CÔNG GIÁO, QUYỀN TƯ HỮU KHÔNG PHẢI LÀ MỘT QUYỀN TUYỆT ĐỐI

Dù cho thấy không có sự mâu thuẫn giữa “quyền tư hữu” và nguyên tắc “mục đích phổ quát của của cải”, thế nhưng, đối với Giáo Hội, quyền tư hữu không phải là một quyền tuyệt đối. Dưới đây là một vài trích dẫn các văn kiện của Giáo Hội về vấn đề này:

Hiến chế Gaudium et spes, số 69:

« …Dù chấp nhận bất cứ hình thức tư hữu nào đã được nhìn nhận bằng các định chế hợp pháp của các dân tộc, tuy nhiên tùy theo hoàn cảnh khác biệt và thay đổi, phải luôn luôn lưu ý đến mục đích chung hưởng của cải. Vì thế, khi xử dụng của cải, con người phải coi của cải vất chất mà mình làm chủ một cách chính đáng không chỉ như của riêng mình, nhưng còn là của chung nữa: nghĩa là, của cải đó có thể sinh ích không những cho riêng mình mà còn cho cả người khác… »

Thông điệp Progressio populorum, số 22:

« Trái đất đã được tạo dựng nên để cung cấp phương tiện sinh sống và khí cụ tiến bộ cho mỗi người, thì mỗi người có quyền tìm thấy ở trong đó những điều cần thiết cho mình. Công đồng cũng đã nhắc lại điều đó rằng: “Thiên Chúa đã tạo dựng trái đất và mọi vật trên đó là để mọi người và mọi dân tộc sử dụng. Vì thế của cải trần gian phải tràn đầy đồng đều cho mọi người, theo luật công bằng là một luật đi liền với luật Bác ái ».

Định luật này phải được ưu tiên trên mọi quyền hạn khác, bất cứ là quyền nào kể cả quyền tư hữu và quyền tự do buôn bán. Các quyền khác không những không được cản trở, mà trái lại phải giúp định luật này thể hiện dễ dàng. Vì đó, phải hiểu rằng bổn phận xã hội quan trọng và cấp bách nhất: là phải quy hướng các quyền nói trên về với cùng đích tiên khởi của chúng.»

Thông điệp Laborem exercens, số 14:

« Truyền thống Kitô giáo không bao giờ chủ trương đó là quyền tuyệt đối, không gì chạm đến được. Trái lại, quyền này được hiểu trong bình diện rộng lớn hơn thuộc quyền lợi chung của mọi người được sử dụng các lợi ích của cải của toàn thể tạo vật: quyền tư hữu phụ thuộc vào quyền công ích, vào việc sử dụng chung các lợi ích của cải.»

Thông điệp Sollicitudo rei socialis, số 42:

« Cần phải nhắc lại một lần nữa cái nguyên tắc đặc trưng của giáo lý Kitô giáo về vấn đề xã hội, đó là: của cải trần thế, tự căn bản, được dành cho hết mọi người. Quyền tư hữu là đúng đắn và cần thiết, nhưng nó không loại bỏ nguyên tắc trên. Thật vậy, tư hữu như là mắc một món nợ xã hội, nghĩa là trong việc tư hữu, người ta nhận ra, như một tính cách nội tại, một chức năng xã hội được thiết lập và biện minh bởi nguyên tắc của cải phải được dùng cho mọi người. Và trong việc dấn thân cho người nghèo, không nên xao nhãng hình thức đặc biệt của những người nghèo, đó là bị tước đoạt các quyền căn bản của con người, cách riêng quyền tự do tôn giáo và quyền có sáng kiến kinh tế.»

Tóm Lược Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội Công Giáo, số 177:

« Truyền thống Kitô giáo chưa bao giờ công nhận quyền tư hữu là quyền tuyệt đối và bất khả xâm phạm: “Ngược lại, truyền thống ấy luôn luôn hiểu quyền này trong khuôn khổ rộng lớn hơn là quyền của hết mọi người được sử dụng tài nguyên của toàn vũ trụ: quyền tư hữu phải lệ thuộc quyền sử dụng chung, lệ thuộc thực tế sau đây: của cải là nhằm phục vụ hết mọi người”. Nguyên tắc mục tiêu phổ quát của của cải là một cách khẳng định chủ quyền vĩnh viễn và trọn vẹn của Thiên Chúa trên mọi thực tại và yêu cầu phải luôn đặt của cải phục vụ sự phát triển toàn diện con người và toàn thể nhân loại. Nguyên tắc này không đi ngược quyền tư hữu nhưng chỉ cho chúng ta biết bổn phận phải điều hoà quyền ấy. Thật vậy, bất luận thi hành việc điều hoà và áp dụng các chuẩn mực pháp lý liên quan đến tư hữu dưới hình thức cụ thể nào, thì tư hữu tự nó vẫn chỉ là một công cụ giúp chúng ta tôn trọng nguyên tắc mục tiêu phổ quát của của cải; bởi đó, phân tích tới cùng, tư hữu không phải là mục tiêu mà chỉ là phương tiện »

Leave a comment »

TÁI MỞ HỒ SƠ: GALILÉO

MỘT NGỤ NGÔN VÔ THẦN: TÁI MỞ HỒ SƠ GALILÊ

“Tôi tin rằng vụ án Galilê là một loại bi kịch Hy Lạp, một cuộc tỉ thí giữa đức tin mù quáng và lý trí được khai sáng, một sai lầm ngây thơ.”
Arthur Koestler, The Sleepwalkers

B
ất kể vai trò của Kitô Giáo trong nguồn gốc và sự phát triển của khoa học, đề tài về cuộc chiến giữa khoa học và tôn giáo vẫn dai dẳng. Điều gì đã đem lại sức mạnh để kéo dài câu chuyện này?
Đó là những trường hợp được phúc trình về việc giáo hội ngược đãi các khoa học gia như Copernicus và Galileo.
Các văn sĩ vô thần đề cập đến chủ đề này với sự báo thù. Daniel Dennett chọn riêng Giáo Hội Công Giáo và chê bai “cái di sản đáng tiếc khi ngược đãi chính các khoa học gia của mình.” Bruce Jakosky viết, “Quan điểm của Copernicus không được giáo hội đón nhận; quá trình sự ngược đãi ông ta thì thật nổi tiếng.” Carl Sagan miêu tả Galileo “trong một ngục tù của Công Giáo bị đe dọa bằng sự tra tấn” vì “quan điểm lạc giáo của ông cho rằng trái đất xoay chung quanh mặt trời.” Nhận xét rằng Galileo “không được tha cho tội lạc giáo mãi cho đến năm 1992,” Sam Harris nhắc lại truyền thống Kitô Giáo về “sự tra tấn các học giả cho đến độ điên dại chỉ vì nghiên cứu về bản chất các tinh tú.”

Về câu chuyện khoa học chống với tôn giáo, nó có đặc tính của phim Star Wars. Nó thường được miêu tả như một cuộc chiến giữa thiện và ác: người tốt lành đề ra một phương cách mới về sự hiểu biết dựa trên thử nghiệm và chứng cớ. Các lực lượng tối tăm bị giam hãm trong học thuyết cổ xưa xuất phát từ các sách thiêng liêng, tỉ như niềm tin cũ rích cho rằng trái đất là mặt phẳng. Bất kể sự ngu dốt của mình, các lực lượng tối tăm chiếm đóng các vị thế chính trị. Sợ rằng kiểu cách mê tín cổ lỗ của mình bị đe dọa, các lực lượng tối tăm đàn áp và ngược đãi những người bất đồng quan điểm với sự chính thống. Một cuộc chiến khủng khiếp xảy ra sau đó. Nhiều người tốt lành bị kết án là lạc giáo chỉ vì đề cao các lý thuyết khoa học có giá trị. Giordano Bruno bị thiêu sống vì nói rằng vũ trụ thì vô tận. Copernicus và Galileo bị ngược đãi vì chứng minh rằng trái đất quay chung quanh mặt trời. Thật may mắn, lịch sử buồn thảm này hiện thời đã đi vào quá khứ; các lực lượng ánh sáng đã chế ngự các lực lượng tối tăm. Ngày nay khoa học đang trên đà phát triển và tôn giáo đang thoái hóa. Các khoa học gia bây giờ có thể hoạt động mà không bị cản trở và ngay cả Giáo Hội Công Giáo cũng đã xin lỗi về cách đối xử với Galileo. Luân lý của câu chuyện là chúng ta luôn luôn phải biết ơn về sự phát sinh của khoa học và tỉnh thức coi chừng tính cách cuồng tín của tôn giáo.

Bi kịch rùng rợn này bị mất chất lượng chỉ vì một khuyết điểm duy nhất: nó không đúng sự thật. Sử gia David Lindberg viết, “Không có cuộc chiến giữa khoa học và giáo hội.” Thật vậy, hầu hết các sử gia đều cho rằng câu chuyện khoa học chống với tôn giáo là một thêu dệt trong thế kỷ mười chín. Tên tuổi của những người thêu dệt đều được biết.

Người đầu tiên là John William Draper, người giới thiệu mô hình “cuộc chiến” trong cuốn sách nổi tiếng của ông, “History of the Conflict between Religion and Science” (Lịch sử cuộc xung đột giữa tôn giáo và khoa học) xuất bản năm 1874. Cuốn sách này thì đầy những điều dối trá và trơ trẽn, và ngày nay được coi là tiêu biểu cho thành kiến chống tôn giáo vào cuối thế kỷ 19.

Người thứ hai là Andrew Dickson White, là khoa trưởng đầu tiên của Đại Học Cornell, mà tập khảo cứu của ông năm 1896, “History of the Warfare of Science with Theology in Christendom”, (Lịch sử cuộc chiến khoa học với thần học Kitô giáo) chỉ là một giải thích có tính cách ngụy biện về cuộc chiến ấy, không kém phần lừa dối như của Draper.

Các nguồn tài liệu này hiện giờ không còn đáng tin cậy, nhưng âm hưởng của chúng vẫn còn được sử dụng bởi các văn gia vô thần nổi tiếng. Âm hưởng này hiện thời vẫn còn được ngâm nga trong nền văn hóa hiện đại của chúng ta, ngay cả bởi những người biết rất ít chi tiết của vấn đề.

Cho đến ngày nay, nhiều người tin rằng giáo hội trung cổ chủ trương rằng trái đất thì bằng phẳng cho đến khi khoa học hiện đại chứng minh là nó hình tròn. Trên thực tế, người Hy Lạp xưa và Kitô Hữu thời trung cổ đều biết rằng trái đất thì tròn. Họ quan sát thấy thân tầu buồm thì biến dạng trước đỉnh cột buồm. Họ cũng thấy rằng khi nguyệt thực, trái đất tạo nên bóng tròn trên mặt trăng. Vũ trụ học của Dante thời trung cổ được dựa trên ý tưởng khối cầu của trái đất. Bởi thế ý nghĩ cho rằng giáo hội tin là trái đất bằng phẳng, đó là một pha chế của những người tuyên truyền chống tôn giáo vào thế kỷ mười chín.

Các tình tiết nổi tiếng khác trong cuộc chiến vĩ đại này cũng đòi hỏi phải thận trọng duyệt xét lại.

Bạn có nhớ cuộc tranh luận nổi tiếng giữa Samuel Wilberforce, giám mục của Oxford , và đồng minh của Darwin là Thomas Henry Huxley không, trong đó vị giám mục chế nhạo Huxley và Huxley phản pháo với một bác bỏ có tính cách hạ nhục? “Cuộc trao đổi này mau chóng trở nên huyền thoại,” Edward Larson nhận xét như thế trong cuốn sách của ông, Evolution. Như Larson và nhiều người khác kể lại câu chuyện này, Wilberforce đã hỏi Huxley rằng ông xuất xừ từ con khỉ là về phía ông tổ hay bà tổ. Huxley đã nghiêm nghị trả lời rằng thà ông ta có bà con với một con khỉ đáng thương hơn là bà con với một giám mục là người đã dùng thẩm quyền của chức vụ để chế nhạo cuộc tranh luận khoa học về một vấn đề nghiêm trọng.

Câu chuyện này được lan tràn rộng rãi đến độ các sử gia đã phải kiểm chứng lại trong biên bản của tổ chức British Association và họ ngạc nhiên khám phá thấy rằng điều đó không bao giờ xảy ra. Bạn của Darwin là Joseph Hooker cũng có mặt trong cuộc tranh luận, và ông báo cáo cho Darwin biết là Huxley không trả lời cho lý luận của Wilberforce. Việc Larson sử dụng chữ “huyền thoại” thì thật đúng với nghĩa đen trong khung cảnh này.

Với hầu hết dân chúng, không tình tiết nào miêu tả sự xung đột giữa khoa học và tôn giáo một cách bi thảm cho bằng vụ án Galileo. Vào cuối thập niên 1930, Bertolt Brecht viết một kịch bản xuất sắc, Life of Galileo, và được dựng thành phim vào năm 1975 bởi đạo diễn Hoa Kỳ Joseph Losey. Bản kịch của Bretcht là câu chuyện về ác tâm của giáo sĩ và ưu điểm của khoa học. Nó là bản phong thánh cho Galileo thành một vị thánh thế tục. Và đây là vị thế mà Galileo chiếm ngự trong văn hóa chúng ta ngày nay, một vị tử đạo vì chính nghĩa khoa học.

Khi các văn gia vô thần nói về “lịch sử” bách hại các khoa học gia của giáo hội, họ thường trưng ra vụ án Galileo.

Copernicus không bao giờ bị giáo hội ngược đãi. Giordano Bruno, người độc lập tư tưởng, bị thiêu sống, nhưng như sử gia Thomas Kuhn vạch rõ, “Bruno không bị hành quyết vì học thuyết Copernicus nhưng vì một chuỗi lầm lạc thần học về Thiên Chúa ba ngôi.” Sự hành quyết Bruno quả thật là sự bất công khủng khiếp, nhưng nó không liên can gì đến sự xung đột giữa khoa học và tôn giáo.

Trước thế kỷ thứ mười hai và sự thanh trừng của Stalin và Hitler, chỉ có một khoa học gia nổi tiếng bị hành quyết bởi sắc lệnh của chính phủ. Đó là hóa học gia vĩ đại Antoine Lavoisier, một người Công Giáo chân thành bị Jacobins chém đầu trong thời Cách Mạng Pháp.

Chúng ta nên trở lại với Galileo. Trong chương này tôi muốn nhờ vào sự nghiên cứu lịch sử để mở lại vụ án Galileo. Nếu luận điệu của người vô thần về vụ án này không thể đứng vững trước sự khảo xét của tôi, thì toàn thể tính chất quá đáng của xung đột giữa khoa học với tôn giáo sẽ bị tiêu tan như một trò hề.

Trước thế kỷ thứ mười sáu, hầu hết người có học thức chấp nhận các lý thuyết của nhà thiên văn Ptolemy người Hy Lạp, ông chủ trương rằng trái đất thì cố định và mặt trời quay chung quanh trái đất. Ý tưởng trái đất là tâm của vũ trụ là một ý niệm cổ xưa, không chỉ của Kitô Giáo. Người tín hữu Kitô chấp nhận ý niệm này, dù không có trong Kinh Thánh. Kinh Thánh không bao giờ nói rằng mặt trời xoay chung quanh trái đất. Kinh Thánh im lặng về vấn đề khoa học. Có một vài đoạn đề cập đến việc mặt trời mọc và lặn, nhưng có thể hiểu là một đoạn văn thiêng liêng dùng đến ngôn ngữ dễ hiểu của con người. (Ngay cả các chuyên gia khí tượng, họ biết rõ là trái đất xoay chung quanh mặt trời, nhưng vẫn dùng thuật ngữ thông thường: “Ngày mai mặt trời sẽ mọc vào lúc 5g sáng”). Lý do người tín hữu Kitô chấp nhận Ptolemy là vì lý thuyết phức tạp của ông được hỗ trợ bởi trực giác và đem lại những tiên đoán chính xác hợp lý về sự vận chuyển của các thiên thể.

Thật thú vị là có một nhà tư tưởng Hy Lạp, Aristarchus ở Samos , đã đề ra thuyết tâm mặt trời mãi từ thế kỷ thứ ba trước công nguyên. Sử gia David Lindberg viết, “Aristarchus được tán dương vì ông đoán trước Copernicus.” Nhưng có phải Aristarchus và các môn đệ của ông là khoa học gia không? Để tránh sự sai lầm có tính cách phản hồi khi dùng kiến thức hiện đại để đánh giá các xác nhận về khoa học trong quá khứ, chúng ta phải xem xét các dữ kiện vào thời bấy giờ. Như Lindberg có viết, “Vấn đề không phải là chúng ta có những lý do đáng tin cậy về thuyết tâm mặt trời, nhưng là họ có các lý do nào như thế không, và câu trả lời là họ không có.”

Dữ kiện có cho đến ngày Galileo bênh vực Ptolemy. Kuhn nhận xét rằng trong suốt thời Trung Cổ có những người đưa ra thuyết tâm mặt trời. “Họ bị nhạo cười và lãng quên”, Kuhn viết thêm, “các lý do tẩy chay thật xuất sắc.” Hãy xem một vài thí dụ ông viết. Trái đất dường như không di chuyển, và tất cả chúng ta có thể thấy mặt trời mọc vào buổi sáng và lặn vào buổi chiều. Nếu trái đất quay chung quanh mặt trời với tốc độ cao, chim chóc và mây và những vật nào không bám vào đất sẽ rơi lại đằng sau. Một hòn đá ném lên trời sẽ rơi xuống đất cách đó nhiều dặm, vì khi trái đất di chuyển được một khoảng cách đáng kể thì vật ấy vẫn còn ở trên không. Người ta đứng trên mặt đất sẽ bị té ngã. Vì không thấy có điều nào kể trên xảy ra, trái đất được coi là cố định.

Galileo là một nhà thiên văn người Florentine được Giáo Hội Công Giáo rất tôn trọng. Ông từng là một người hỗ trợ thuyết tâm địa cầu của Ptolemy. Galileo ngày càng tin rằng Copernicus thì đúng, trái đất thực sự quay chung quanh mặt trời. Copernicus đưa ra lý thuyết của ông vào năm 1543 trong một cuốn sách được tặng cho đức giáo hoàng. Copernicus thú nhận rằng ông không có chứng cớ vật lý, nhưng ưu điểm của thuyết tâm mặt trời là nó đưa đến nhiều tiên đoán tốt hơn về các qũy đạo của hành tinh. Ý tưởng mới của Copernicus đã gây nên nhiều cuộc tranh luận trong cộng đồng tôn giáo và khoa học, mà lúc bấy giờ không rõ biên giới.

Nửa thế kỷ sau, khi Galileo đi vào vấn đề, quan điểm chiếm ưu thế là Copernicus đã đưa ra một giả thuyết rất thú vị nhưng chưa được chứng minh, rất hữu ích để tính toán sự vận chuyển của các thiên thể nhưng không đủ sức thuyết phục để loại bỏ toàn thể thuyết tâm địa cầu.

Sự đóng góp của Galileo cho giả thuyết Copernicus thì quan trọng nhưng không dứt khoát. Đây là điểm quan trọng cần nhớ, bởi vì huyền thoại được thêu dệt chung quanh Galileo hầu như dựa trên các biến cố không bao giờ xảy ra.

Kuhn kể câu chuyện mà tất cả chúng ta đều biết khi còn đi học về việc Galileo leo lên đỉnh tháp nghiêng Pisa rồi thả các vật nặng và nhẹ xuống đất. Ông cho rằng, trái với sự hiểu biết bằng trực giác, các vật này chạm mặt đất cùng một lúc. Câu chuyện kể tiếp, một thí nghiệm đơn giản đã đánh đổ một giả thuyết có từ hàng ngàn năm thời trung cổ.

Trên thực tế, Galileo không làm thí nghiệm này ở Pisa hay bất cứ đâu; thí nghiệm này được thi hành bởi một trong các môn sinh của ông. Hơn thế nữa, thực sự vật nặng hơn rơi xuống đất trước. Ngày nay chúng ta hiểu tại sao có trường hợp như vậy. Chỉ khi nào được thí nghiệm trong một môi trường thiếu sức cản không khí thì mọi vật thể đều rơi xuống với cùng một tốc độ.
Kuhn viết, “Trong thế giới hàng ngày, vật nặng rơi nhanh hơn vật nhẹ… Quy luật của Galileo thì hữu ích hơn cho khoa học… không vì nó xuất sắc tiêu biểu cho sự thí nghiệm, nhưng vì nó vượt trên sự thiển cận thông thường mà giác quan không thấy để đi đến một khía cạnh chủ yếu hơn, nhưng được ẩn giấu, của sự chuyển động. Để minh chứng quy luật mà Galileo nhận xét cần phải có dụng cụ đặc biệt. Chính Galileo có được quy luật này không bởi sự quan sát… nhưng bởi một chuỗi lý luận hợp lý.”

Nhờ sáng chế một viễn vọng kính mạnh hơn những người khác vào thời ấy, Galileo có những quan sát quan trọng về các mặt trăng của Jupiter, chu kỳ của Venus, và các đốm đen trên mặt trời mà chúng làm suy yếu thuyết Ptolemy và phù hợp với giả thuyết của Copernicus.

Galileo đem những quan sát này trình bầy với các linh mục dòng Tên, họ là những nhà thiên văn nổi tiếng thời bấy giờ, và họ đồng ý với ông là các quan sát của ông đã giúp củng cố thuyết tâm mặt trời. Các cha dòng Tên nói với Galileo rằng giáo hội đang chia rẽ, nhiều giáo sĩ ủng hộ Ptolemy trong khi nhiều người khác cho rằng Copernicus thì đúng. Ngay cả vậy, các cha dòng Tên kết luận rằng vấn đề còn bỏ ngỏ và họ không nghĩ rằng Galileo giải quyết được vấn đề. Tyco Brahe, nhà thiên văn vĩ đại nhất của thời ấy, đồng ý rằng các chứng cớ của Galileo chưa đủ và ông tiếp tục hỗ trợ thuyết tâm địa cầu. Danh tiếng của Brahe thật vĩ đại đến độ nhiều nhà thiên văn không dám quay sang thuyết Copernicus cho đến khi ông từ trần.

Có thể nhiều độc giả ngạc nhiên khi biết rằng đức giáo hoàng là một trong những người ngưỡng mộ Galileo và hỗ trợ các cuộc nghiên cứu khoa học đến độ bảo trợ tổ chức trong các đại học và đài thiên văn.

Trưởng Toà Thẩm Tra cũng vậy, vị thần học gia uyên bác là Đức Hồng Y Robert Bellarmine. Khi bài nói chuyện của Galileo để hỗ trợ cho thuyết tâm mặt trời được phúc trình lên Tòa Thẩm Tra, dường như bởi các học giả thù nghịch với Galileo ở Florence, ĐHY Bellarmine đã đến gặp Galileo.
Đây không phải là một thủ tục thông thường của Tòa Thẩm Tra, nhưng Galileo là một người nổi tiếng. Năm 1616 ông đến Rôma với sự đón tiếp nồng nhiệt, ở đây ông cư ngụ trong đại biệt thự Medici, được gặp đức giáo hoàng hơn một lần, và tham dự các buổi tiếp tân do một vài giám mục và hồng y tổ chức.

Điều nhận xét của Bellarmine có liên hệ đến Galileo thì thật đáng nhớ và đáng kể lại. Bellarmine viết, “Trong khi cảm nghiệm nói với chúng ta rõ ràng rằng trái đất thì bất động, nếu có một chứng minh đích thật cho rằng mặt trời là tâm điểm của vũ trụ… và mặt trời không quay xung quanh trái đất nhưng trái đất xoay chung quanh mặt trời, thì chúng ta phải xúc tiến với sự thận trọng để giải thích các đoạn kinh thánh mà dường như dậy bảo ngược lại, và tốt hơn nên thú nhận là chúng ta không hiểu các đoạn ấy hơn là công bố một ý niệm sai lầm đã được minh chứng là đúng. Nhưng đây không phải là điều nên thi hành vội vã, và đối với tôi, tôi sẽ không tin có những chứng minh như vậy cho đến khi được trình bầy cho tôi.”

Đây là kiểu mẫu của một thủ tục khôn ngoan. Bellarmine cho rằng không thể có mâu thuẫn thực sự giữa thiên nhiên và kinh thánh, đó là điều Kitô giáo luôn dậy bảo. Do vậy, ngài lý luận, nếu chúng ta thường đọc kinh thánh theo một chiều và chứng cớ thiên nhiên cho thấy chúng ta sai, thì chúng ta cần xem lại cách dẫn giải kinh thánh và thú nhận sự sai lầm của chúng ta. Nhưng trước hết phải biết chắc có chứng cớ khoa học thực sự trước khi khởi sự thay đổi cách giải thích kinh thánh là điều chúng ta được dậy bảo từ bao lâu nay. Bellarmine đưa ra một giải pháp. Dựa vào chứng cớ không có sức thuyết phục về lý thuyết này và sự tế nhị của vấn đề tôn giáo, Galileo đừng nên giảng dậy hay cổ vũ thuyết tâm mặt trời. Galileo, một người Công Giáo tốt lành muốn trung thành với giáo hội, đã đồng ý. Bellarmine đưa một huấn thị và lập biên bản của thủ tục và đã được lưu trong hồ sơ của giáo hội.

Trong một vài năm, Galileo giữ lời và tiếp tục quan sát và thảo luận mà không công khai cổ vũ thuyết tâm mặt trời. Sau đó ông nhận được tin vui là ĐHY Maffeo Barberini được chọn làm Đức Giáo Hoàng Urban VIII. Barberini là một khoa học gia “cấp tiến,” từng tranh đấu để công trình của Copernicus không bị đưa vào thư mục những cuốn sách bị cấm. Cũng đáng kể không kém, Barberini là một người hâm mộ Galileo, và ngay cả làm thơ để tán dương ông. Galileo tin tưởng rằng bây giờ ông có thể công khai giảng dậy về thuyết tâm mặt trời.

Nhưng vị thế mới của đức giáo hoàng về vấn đề này thì thật phức tạp. Đức Urban VIII chủ trương rằng trong khi khoa học có thể hữu ích trong việc đo lường và tiên đoán về vũ trụ, nó không thể cho rằng có hiểu biết thực sự về thực thể mà chỉ có Thiên Chúa mới biết. Giả thuyết này, nghe có vẻ lạ lùng, thì thực sự rất gần với điều mà bây giờ một số nhà vật lý tin tưởng, và như chúng ta sẽ thấy, nó hoàn toàn phù hợp với minh chứng triết học của Kant về những giới hạn của lý lẽ.
Do đó khi Galileo cho xuất bản cuốn Dialogue Concerning the Two Chief World Systems (Đối Thoại về Hai Hệ Thống Chính của Vũ Trụ) năm 1632, giáo hội rơi vào tình thế khó xử.

Trước hết, Galileo cho rằng đã minh chứng được sự thật về thuyết tâm mặt trời, nhưng thật ra minh chứng của ông thì sai lầm. Một trong những lý lẽ chính của Galileo là cho rằng sự chuyển dịch mau lẹ của trái đất chung quanh mặt trời tạo nên thủy triều. Đây là vấn đề của thời bấy giờ, và giờ đây chúng ta biết rằng mặt trăng là yếu tố chính gây nên thủy triều. Galileo cũng cho rằng, giống như Copernicus, các hành tinh chuyển dịch theo đường tròn, dù rằng vào thời Galileo, Kepler đã từng chứng minh là qũy đạo hình bầu dục. Galileo dám chắc rằng Kepler sai.

Thứ hai, Galileo đã làm đức giáo hoàng bối rối khi dựng cuộc “đối thoại” của ông với hai khuôn mặt, một đại diện cho chính ông và một đại diện cho đức giáo hoàng. Để sự tương phản càng nổi bật, Galileo đặt tên cho đức giáo hoàng là Simplicio, tiếng Ý có nghĩa “Người Khờ”. Căn bản, cuộc đối thoại bao gồm những luận điệu ngu xuẩn của Simplicio bị bác bỏ một cách tao nhã bởi nhân vật tượng trưng cho Galileo. Đức giáo hoàng không lấy làm vui.

Sai lầm thứ ba của Galileo là văn bản của ông không chỉ nằm trong các vấn đề khoa học; ông còn đưa ra giả thuyết của chính ông về cách dẫn giải Kinh Thánh. Galileo lý luận rằng Kinh Thánh phần lớn có tính cách ẩn dụ và đòi hỏi phải giải thích lại để đào xới ý nghĩa thực sự của nó. Các cha dòng Tên đã cảnh cáo ông đừng đi vào lãnh vực này. Họ nói với Galileo, Kinh Thánh là lãnh vực của giáo hội. Với những ngạo mạn và thiếu khôn ngoan thường thấy nơi các đại khoa học gia, Galileo đã bỏ qua lời khuyên này. Do đó khi ông bị phúc trình một lần nữa lên Tòa Thẩm Tra, các đối thủ của ông đã có thể chê trách ông không vì lý do khoa học nhưng còn vì lý do là ông ngấm ngầm phá hoại sự giảng dậy tôn giáo của giáo hội.

Sau cùng, đây là thời kỳ Cải Cách. Các nhà tư tưởng Tin Lành đang tấn công giáo hội Công Giáo với lý do không coi trọng Kinh Thánh. Đức Urban VIII hăng hái minh chứng Vatican trung thành với Kinh Thánh, và thuyết tâm địa cầu là một dẫn giải được đồng ý trong lập trường chính thức của người Công Giáo và Tin Lành. Nếu sự Cải Cách xảy ra một thế kỷ trước hay sau, Richard Blackwell viết, “sự kiện Galileo có lẽ đã không xảy ra.” Tuy nhiên, dưới những tình huống hiện hành, đức giáo hoàng đồng ý cho tiến hành vụ Galileo.

Năm 1633, Galileo trở lại Rôma, là nơi ông được đối xử một cách tôn trọng. Ông đã có thể thắng được vụ án này, nhưng trong cuộc điều tra, vài người tìm thấy những lá thư ngắn của ĐHY Bellarmine trong hồ sơ. Galileo đã không cho Tòa Thẩm Tra biết–thực sự ông không cho ai biết–về sự đồng ý trước đây là không giảng dậy hay cổ vũ cho thuyết Copernicus. Giờ đây, Galileo được coi như lừa dối giáo hội cũng như không sống đúng với điều ông đồng ý. Ngay cả những người trong giáo hội có thiện cảm với ông cũng thấy khó để bênh vực cho ông vào thời điểm này. Nhưng họ khuyên ông hãy thú nhận là ông đã cổ vũ cho thuyết Copernicus trái với thỏa ước giữa ông với Bellarmine, và ông hãy chứng tỏ sự ăn năn hối lỗi.

Thật ngạc nhiên, Galileo xuất hiện trước Tòa Thẩm Tra và quả quyết rằng cuốn Dialogue của ông không bào chữa cho thuyết tâm mặt trời. “Trong sách ấy tôi không duy trì và cũng không bào chữa quan điểm rằng trái đất di chuyển và mặt trời phải đứng yên nhưng đúng hơn chứng tỏ điều trái ngược với quan điểm của Copernicus và cho thấy rằng các lý luận của Copernicus thì không chắc chắn và không có sức thuyết phục.”

Điều thường được lập đi lập lại nhiều lần là Galileo thì thào nói trong hơi thở rằng, “Tuy vậy nó di chuyển.” Nhưng nhận xét này thuần túy thêu dệt.

Thật vậy, không có phúc trình nào cho thấy Galileo đã nói như thế. Ở đây người ta phải thấy thương hại cho các nguyên cớ của Galileo. Có lẽ ông đưa ra nhận định từ chối thuyết tâm mặt trời vì mệt mỏi và chán nản. Ngay cả vậy, các viên chức Tòa Thẩm Tra cũng có thể được bào chữa khi họ coi quan điểm của Galileo ở lúc này là một người nói dối trắng trợn. Sự bào chữa của Galileo, Arthur Koestler viết, thì quá “thiếu thành thật hiển nhiên đến độ vụ kiện của ông sẽ bị thua trong bất cứ tòa nào.” Tòa Thẩm Tra kết luận rằng Galileo chủ trương quan điểm tâm mặt trời, và đòi hỏi ông phải công khai rút ý kiến ấy. Galileo đã thi hành như vậy, vào thời điểm ông bị giam tại gia.

Trái với sự tuyên truyền của một số nhà vô thần, Galileo không bao giờ bị kết tội lạc giáo, và không bao giờ bị giam trong ngục tối hay bị tra tấn bằng bất cứ cách nào.

Sau khi công khai rút ý kiến, ông được đặt dưới sự giám hộ của đức tổng giám mục của Siena, là người cho ông cư ngụ trong biệt thự lộng lẫy trong năm tháng. Sau đó ông được phép trở về biệt thự của ông ở Florence . Trên lý thuyết ông bị giam tại gia, nhưng thực tế ông có thể đi thăm con gái ở tu viện San Matteo. Giáo hội cũng cho phép ông tiếp tục nghiên cứu khoa học về các vấn đề không liên can đến thuyết tâm mặt trời, và ông đã cho công bố kết quả nghiên cứu quan trọng trong thời gian này.

Galileo chết một cách tự nhiên vào năm 1642. Kuhn cho biết, chính trong các thập niên sau đó, xuất hiện các bằng chứng mới hơn và mạnh mẽ hơn về giả thuyết tâm mặt trời, và quan điểm khoa học này, bị chia đôi trong thời Galileo, trở nên quan điểm của đa số mà chúng ta chia sẻ ngày nay.

Chúng ta có thể kết luận gì về vụ Galileo? “Hình ảnh quen thuộc về Galileo như một vị tử đạo vì sự tự do tư tưởng và một nạn nhân của sự đàn áp khoa học của giáo hội,” sử gia Gary Ferngren viết, “được chứng tỏ không hơn gì một sự biếm họa.” Vụ kiện này là một “bất thường”, sử gia Thomas Lessl viết, “một gián đoạn tạm thời trong sự tương giao hài hòa” hiện có giữa Kitô Giáo và khoa học. Thật vậy, trong lịch sử giáo hội Công Giáo không có một thí dụ nào khác về việc lên án một giả thuyết khoa học.

Galileo là một khoa học gia vĩ đại nhưng thiếu khôn ngoan. Ông rất đúng về thuyết tâm mặt trời, nhưng vài lý lẽ và minh chứng của ông thì sai. Cuộc tranh luận về ý tưởng của ông thì không chỉ giới hạn giữa tôn giáo và khoa học, nhưng còn giữa khoa học mới và khoa học của thế hệ trước.

Các khuôn mặt lãnh đạo của giáo hội thì thận trọng hơn khi tiếp cận với các vấn đề khoa học, mà chúng thực sự chưa ổn định vào thời ấy, hơn là đối với Galileo. Giáo hội không nên đưa ông ra tòa, nhưng phiên xử của ông được tiến hành với sự dè dặt đáng kể và cách cư xử thật kiểu mẫu. Chính Galileo hành động tệ hại, mà nó đã góp phần cho số phận của ông. Ngay cả vậy, số phận của ông cũng không quá thậm tệ.

Alfred North Whitehead, một sử gia nổi tiếng về khoa học, kết luận rằng “điều tệ hại nhất xảy ra cho khoa học gia là Galileo chịu giam cầm cách vinh dự và sự quở trách nhẹ nhàng, trước khi chết một cách êm ái trên giường.”

Trích Chương 10 của “ĐIỀU VĨ ĐẠI CỦA KITÔ GIÁO” _ Nguyên tác: “What’s So Great About Christianity”
Tác giả: Dinesh D’Souza.
Dịch giả: Pt Giuse Trần Văn Nhật.

Leave a comment »

CUỘC ĐỜI CHÂN PHƯỚC GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II

CUỘC ĐỜI CHÂN PHƯỚC GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II

 

Lời giới thiệu (1996): Thế giới biết tới Đức Thánh cha Gioan Phaolô II như một thủ lãnh tôn giáo đầy quyền uy với sự điều khiển khéo léo việc truyền thông, nhưng cho đến nay, sống trong bầu khí cởi mở của Vatican, vị ấy còn giữ lại điều gì khó hiểu. Phần trích này, lấy từ cuốn từ cuốn His Holiness, xuất bản năm 1997 của hai tác giả Carl Bernstein và Marco Politi, cho chúng ta một cái nhìn rất con người và sâu xa vào bản thân của Đức Thánh cha. Đây là câu chuyện đặc biệt về một thanh niên Ba Lan ít người biết đến nhưng sáng chói, kẻ mà áng mây thảm kịch thời trai trẻ ám ảnh suốt cuộc đời còn lại của mình; một trí thức, với một ít ham muốn các công việc của quốc gia, học để làm một bậc thầy về khoa địa lý chính trị. Và trên hết, là một con người cầu nguyện, nhưng cũng là kẻ làm việc mật thiết với Tình báo Hoa Kỳ để cứu quê hương mình và tạo hình cho lịch sử hiện đại bằng những cách thức trước đây chưa bao giờ được tiết lộ.

Dì phước Vincenza bước vào phòng ngủ dành cho Đức Thánh cha lúc hơn năm giờ sáng một chút. Dì thường đặt một cốc cà phê ngay bên ngoài cửa phòng ngủ của Đức Thánh cha vào lúc bốn giờ rưỡi mỗi sáng. Khi thấy cốc cà phê không được đụng đến, dì kinh hoảng. Vì thế, dì bước vào trong phòng, lùa bức màn.

Đức Gioan Phaolô I nằm co người trong tư thế đọc sách, dù chết, tay vẫn giữ chặt các trang giấy, khuôn mặt ngài cứng lại làm thành một nụ mỉm cười.

Hôm ấy là ngày 29 tháng Chín năm 1978. Sinh hoạt trong Dinh Đức Thánh cha rơi vào cảnh hoàn toàn đảo lộn. Ngày 26 tháng Tám trước đó, Hồng y đoàn đã họp tại Vatican bầu ngài lên kế vị Đức Phaolô VI. Ngài là Đức Albino Luciani, 65 tuổi, thượng phụ thành Venice. Ngài lấy hiệu Gioan Phaolô I, xuất xứ từ tên hai vị tiền nhiệm liền ngay trước ngài. Mọi sự đã dường như ổn định cho những năm sắp tới.

Đến 7:42 sáng, Đài Phát thanh Vatican loan báo cái chết của Đức Thánh cha…

Theo thông lệ, vị bộ trưởng ngoại giao ra lệnh thu dọn các vật dụng cá nhân của cố giáo hoàng, gồm kính đeo mắt, dép, và thuốc uống trên bàn bên đầu giường.

Một trong các vị thư ký riêng của Đức Thánh cha, sau đó, nói giản dị:

– Ngài kiệt sức bởi gánh nặng quá lớn đối với đôi vai mỏng mảnh và bởi sức nặng của sự cô đơn vô hạn.

Dường như dấu chỉ sự ra đi của Đức Gioan Phaolô I đã được báo trước. Không lâu trước ngày từ trần của mình, ngài nói với một trong các thư ký:

– Có thể tuyển chọn một vị khác tốt hơn tôi. Đức Phaolô VI đã chỉ ra kẻ kế vị ngài. Vị ấy từng ngồi ngay trước mặt tôi trong Nhà nguyện Sistine (tức Đức Hồng y Ba lan Karol Wojtyla). Ngài sẽ đến vì tôi sẽ ra đi.

Tại Krakow, Ba Lan, lời loan báo về cái chết của Đức Gioan Phaolô I tràn ngập đài truyền thanh. Tài xế của Wojtyla nghe tin ấy, vội đến toà hồng y. Lúc vào nhà bếp, anh có thể ngửi thấy mùi bánh mì, trứng và cà phê. Đức Hồng y Wojtyla đang ngồi trong phòng kế thảo luận chương trình trong ngày với những phụ tá thân cận nhất của ngài. Ngài luôn luôn dùng điểm tâm cạnh nhà bếp, giữa mùi nấu nướng khiến ngà nhớ lại thời thơ ấu.

Người tài xế nói với một trong các dì phước phụ trách nhà bếp:

– Đức Thánh cha ở La mã từ trần rồi.

Dì phước biểu lộ vẻ sửng sốt:

– Nhưng ngài đã qua đời tháng trước rồi mà.

– Không, vị mới lên ấy.

Anh ta thò đầu vào căn phòng nơi Đức Wojtyla đang dùng điểm tâm với thư ký của ngài, và nói:

– Thưa Cha, ngài nghe tin Đức Gioan Phaolô I qua đời chưa?

Đức Wojlyla vừa cho muổng đường vào ly cà phê. Ngài lạnh người, tái nhợt, đưa bàn tay phải mình lên. Trong im lặng, chỉ có tiếng động của chiếc muỗng rơi xuống bàn.

Giấc mơ của người mẹ

Cho tới khoảnh khắc ấy, cuộc hành trình dài của Đức Hồng y đã bắt đầu từ ngày 18 tháng Năm, 1920 khi mẹ ngài, bà Emilia Wojtyla chuyển bụng. Người phụ nữ 36 tuổi ấy sức khoẻ mỏng manh. Sáu năm trước đó, bà bỏ một đứa con gái; lúc này, bà sắp sửa sinh nở đứa khác.

Karol chồng bà ở bên cạnh. Ông giữ chức trung úy trong quân đội Ba lan, không ra mặt trận vì đã 40 tuổi. Vì thế, ông được sống với vợ trong trong thành phố tỉnh lẻ Wadowice và chăm sóc cậu con trai 13 tuổi Edmund trong thời gian vợ mình thai nghén.

Vào ngày bà Elimia chuyển bụng, Thống chế Josef Pilsudski khải hoàn trở về thủ đô Warsaw sau chiến trắng quân sự lớn lao nhất của lực lượng Ba Lan đối với Hồng quân Nga: chiếm được thành phố Kiev của Ukraina. Hôm đó, hàng ngàn người Ba Lan xếp hàng dọc theo đường phố nghênh đón người chinh phục Kiev. Đó cũng là ngày mà 59 năm sau, Ba Lan trải qua một ngày đầy hân hoan và hi vọng khi cậu bé ra đời trong ngày ấy tại Wadowice cũng khải hoàn trở về Warsaw.

Cậu bé được bố đặt tên là Karol, nhưng bà mẹ gọi cậu là Lolek. Cậu có tính sôi nổi, hay khôi hài với khuôn mặt giống hệt mẹ. Khi cậu con lớn ở nhà trường, bà Emilia dành hết thì giờ rãnh rổi cho cậu bé, chơi với cậu, đọc cho cậu nghe và kể các chuyện trong Kinh thánh.

Lúc Lolek sáu tuổi bắt đầu đi học thì sức khỏe luôn luôn yếu kém của bà mẹ trở nên tệ hại. Bà thường bị dán chặt vào giường vì đau lưng ghê gớm và những cơn chóng mặt.

Dù ngày càng hiếm những khoảnh khắc dễ chịu, bà Emilia vẫn vui vẻ thực hiện các dự tính với cậu con yêu của mình. Edmund, mà cha mẹ gọi tên ở nhà là Mundek, đang học bác sĩ ở đại học tại Krakow. Cậu sinh năm 1906, lanh lợi khác thường, đẹp trai và lực lưỡng.

Karol theo học trường nam tiểu học. Là cầu thủ bóng đá say mê, cậu xuất sắc trong việc học, noi theo gương ngoan đạo sâu xa của cha mẹ mình và là một người Công giáo mộ đạo. Ngay từ đầu, bà Elimia đã tâm sự với láng giềng giấc mộng muốn con mình thành linh mục.

Ngày 13 tháng Tư năm 1929, lúc cậu bé tám tuổi Karol đang ở trường học thì người ta mang bà Emilia vào bệnh viện. Bác sĩ khám thấy bà bị viêm cơ tim và viêm thận.

Cô giáo của Karol, cũng là láng giềng, gặp cậu lúc cậu đi học về, nói huỵch toẹt với cậu:

– Mẹ em chết rồi.

Lúc đó, bà Emilia chỉ mới 45 tuổi.

Cái chết của bà mẹ cướp mất sự hồn nhi ên của Karol. Cô giáo chú ý đến sự thay đổi tính khí của cậu. Cậu bắt đầu co rút về bản thân mình, tìm lẫn trốn trong sách vở, và cầu nguyện.

Từ ấy trở đi, nguồn suối hân hoan và liên tục độc nhất của cuộc sống Karol là anh mình. Lớn hơn Karol nhiều tuổi, Edmund là một tay chơi quần vợt giỏi và là một ngôi sao bóng đá. Vào các kỳ nghỉ của trường y khoa, Edmund dạy các cậu bé ở Wadowice thành cầu thủ giỏi.

Tình thương của Edmund dành cho cậu em nhỏ có thể nói là vô bờ. Người ta có thể thấy hai anh em lừa banh qua các con đường thành phố. Hoặc Edmund vác em mình trên vai băng qua các cánh đồng.

Với Karol, Edmund là nơi trốn tránh khỏi buồn phiền. Sự tự tin và lạc quan dường như trở lại với cậu bé khi cậu ở bên anh mình.

Năm 1930 Karol được bố đem đến Krakow vì Edmund đã tốt nghiệp trường y. Với ông Wojtyla lúc này đang sống bằng số hưu bổng khiêm tốn, việc tốt nghiệp của người con trai lớn cũng có ý nghĩa là sau cùng gia đình đã có chỗ nương dựa tài chánh. Bằng cấp bác sĩ của Edmund hứa hẹn một tương lai thuận lợi, thoát khỏi những thiếu thốn mà cả nhà quá quen thuộc với đồng lương trung úy ít ỏi của ông Wojtyla.

Sau khi tốt nghiệp, Edmund giữ chức vụ bác sĩ thường trú tại một bệnh viện ở Bielsko, Silesia, nơi Karol thường đến thăm anh mình.

Rồi xảy đến nạn dịch tinh hồng nhiệt. Edmund trải qua suốt đêm cạnh giường một thiếu nữ mà anh đặc biệt tận tâm. Sau đó bị nhiều cơn nhức đầu hành hạ khổ sở và sốt tới 40 độ, anh nhanh chóng nhận thấy cả mình nữa cũng bị truyền nhiễm. Anh rung người theo từng cơn kích sốt làm ói mửa và viêm họng. Ngày 4 tháng Mười Hai, 1932, anh chết cô độc trước khi gia đình có thể gặp mặt.

Chiều hôm ấy, một người láng giềng tốt bụng tìm thấy Karol cô đơn và thảng thốt ngoài sân chung cư họ ở. Bà kể lại:

– Tôi ôm lấy cậu và siết chặt cậu và thì thầm, ‘Lolek tội nghiệp, cháu mất anh cháu rồi’. Với bộ mặt trang nghiêm, cậu bé nhìn lên và nói giản dị, ‘Đó là ý Chúa’. Rồi cậu nhốt mình trong im lặng.

Nhiều chục năm sau, một nhà báo người Ý trình lên Đức Thánh cha Gioan Phaolô II một cuốn sách nhỏ đề tặng người anh của ngài, có hình của Mundek trên tấm áo giấy bọc bìa cuốn sách. Đức Thánh cha chầm chậm áp tấm hình ấy vào môi mình.

Đến nay, trong ngăn kéo phòng làm việc của ngài tại Vatican, vị giáo chủ tối cao ấy còn giữ một báu vật mà ngài nhận được từ nhân viên bệnh viện ở Bielsko: ống nghe bệnh của anh mình.

Bám sát đức tin

Trung úy Wojtyla quyết định rằng đứa con trai còn lại của mình sẽ tiếp nhận trọn vẹn sự nuôi dưỡng, tình yêu và kỹ luật mà ông có thể cung ứng. Bố và con cùng nhau cầu nguyện, dự Thánh lễ hẳng ngày và chơi giỡn với nhau. Có lần, một trong những bạn cùng trường của Karol đến thăm và nghe bên trong cửa rất ồn ào, tiếng la và tiếng dậm chân. Mở cửa, cậu ấy thấy hai bố con mặt đỏ ửng, đẫm mồ hôi trong phòng khách rộng, đồ đạc xếp lại hoặc dựng đứng vào vách. Cả hai đang chơi đá bóng với trái banh quấn bằng giẻ rách.

Karol dành tất cả thì giờ rảnh rỗi cho nỗi đam mê mới: diễn kịch. Cậu dẫn đầu trong các kịch phẩm của nhà trường. Với sự khích lệ của thầy giáo, cậu tham gia một đoàn kịch nghệ. Cậu biểu lộ rất nhiều hứa hẹn tới độ bạn bè không bao giờ nghi ngờ việc Karol sẽ trở thành một kịch sĩ hoặc một nhà văn. Cậu nhanh chóng trở thành một ngôi sao sáng. Những năm ấy đối với cậu thật hạnh phúc. Láng giềng thường nghe cậu hát vui vẻ khi đi xuống cầu thang để tới các buổi tập diễn.

Vào tháng Năm 1938, Tổng giám mục giáo phận Krakow là Adam Sapieha tới Wadocice để cử hành phép Thêm sức. Karol được ban cho vinh dự nghênh đón ngài, và cậu đã chào mừng ngài bằng một diễn từ cực kỳ tao nhã do mình soạn thảo. Đức cha Sapieha ngắm kỹ khuôn mặt nhạy cảm, bao phủ bởi tóc tai bồng bềnh của người học sinh ấy.

Vị Tổng giám mục ấy hỏi thầy dạy giáo lý của Karol :

– Sau khi tốt nghiệp, cậu ấy sẽ làm gì? Cậu ấy có sẽ vào chủng viện không?

Xin phép được trả lời trực tiếp, Karol nói:

– Con sẽ nghiên cứu văn chương và triết học Ba Lan.

Đức tổng giám mục đáp lại:

– Tiếc quá!

Trong lúc ấy, thế giới chung quanh họ đang thay đổi. Karol kết bạn thân thiết với Ginka Beer, một cô láng giềng gia đình ở cùng chung cư. Vào một ngày mùa hè 1938, người thiếu nữ này bất ngờ xuất hiện trước cửa căn hộ của Karol. Cậu tức khắc cảm thấy có điều gì không ổn. Ginka trước đây chưa bao giờ đến nhà cậu.

Cô ấy bảo cậu là bố mình, quản đốc ngân hàng địa phương, đã quyết định cả gia đình phải di tản. Ba Lan dường như không còn yên ổn cho người Do Thái. Những tên du côn trẻ tuổi thường hô hào tẩy chay các cơ sở mua bán và kinh doanh của người Do Thái, đang đập phá cửa sổ của họ.

Bố của Karol cố gắng thuyết phục cô ấy ở lại. Ông lặp đi lặp lại nhiều lần.

– Không phải tất cả người Ba Lan đều bài Do Thái.

Karol cũng cố thuyết phục Ginka đừng đi, nhưng vô ích. Cậu bối rối cực kỳ, tới độ mặt đỏ bừng, và rồi buồn bã không nói nên lời. Karol lần nữa mất thêm người thân của mình.

Sau khi xong trung học, Karol cùng bố dọn đến Krakow và ghi tên vào Đại học Jagiellonian. Khi bom của Đức dội xuống thành phố ngày 1 tháng Chín, anh đang ở trong nhà thờ chánh toà cổ kính. Ngay lúc tiếng nổ dội lại và tiếng còi hụ vang lên, các toán quân Đức tiến vào Krakow.

Ba Lan sụp đổ nhanh chóng và kinh hoàng. Từ ngày 6 tháng Chín, người Đức xâm chiếm Krakow. Ngày 28 tháng Chín, Warsaw đầu hàng và đối với Karol Wojtyla, bắt đầu cuộc sống trong xứ Ba Lan bị chiếm đóng.

Quân Quốc xã nhanh chóng siết chặt dây thòng lọng trên dân chúng. Bất cứ ai làm việc gì mà không được chúng cho phép đều có nguy cơ bị tống xuất đi Đức. Vào mùa thu năm 1940, Karol làm công nhân tại một mỏ đá điều hành bởi công ty hoá học Solvay do người Đức chỉ huy ở ngoại ô Krakow. Suốt tám giờ trên công trường, anh bắt buộc phải làm việc ngoài trời lạnh cóng dưới 0 độ C.

Điều kiện làm việc thật ác nghiệt. Có một ngày, Karol thấy một đồng nghiệp tử nạn vì dăm đá chọc thủng màng tang lúc người ấy sử dụng cưa đá. Anh cảm giác nỗi đau đớn và cơn giận của những công nhân khác cùng sự quằn quại bi thương buốt nhói của người quả phụ.

Các công nhân gọi Karol Wojtyla là “anh chàng sinh viên” và quan sát lúc anh chịu đựng cơn lạnh mà chỉ mặc áo khoác xanh, quần xanh và đội chiếc mũ trì cứng trửng mồ hôi. Một ngày kia, anh làm họ ngạc nhiên khi tới mỏ đá anh xanh mét và run rẩy. Anh đã đem áo khoác của mình cho một người khốn khổ rách rưới nào đó mà anh gặp trên đường.

Công việc tại mỏ đá và tình trạng thiếu thốn của chiến tranh thay đổi thể chất của Wojtyla. Khuôn mặt anh gầy gò và xương xẩu. Khi bước, anh khòm lưng xuống. Khẩu phần thời chiến thật ít ỏi. Sự việc còn tệ hại hơn vì người thanh niên này còn có một ông bố đang bị bệnh nặng.

Vào ngày 18 tháng Hai năm 1941, trời băng giá lúc Wojtyla đi làm việc. Cha anh nằm liệt giường ở nhà, không thể tự lo liệu cho mình.

Sau giờ lao động, Wojtyla mang một ít thực phẩm, thuốc men và trở về căn nhà ở tầng hầm của mình với một người bạn của cô em gái. Anh bước vào phòng của bố, lát sau có tiếng khóc thổn thức vọng ra. Bố anh đã chết.

Ghì chặt cô gái, mặt đầm đìa nước mắt, Wojtyla khóc than:

– Tôi không ở đó khi mẹ tôi mất. Tôi không ở đó khi anh tôi chết. Tôi không ở đó khi bố tôi từ trần.

Suốt đêm, người con trai canh thức thi hài thân phụ. Suốt cuộc canh nguyện này, anh suy nghĩ về chính định mệnh mình. Nhiều năm sau, Đức Gioan Phaolô II nói về thời điểm ấy:

– Vào tuổi 20, tôi đã mất tất cả mọi người tôi yêu thương.

Trong những tháng kế tiếp, nỗi thương đau của anh gắn chặt anh hơn vào đức tin của mình. Sau cùng, năm 1942, người thanh niên ấy đi đến một quyết định. Ít lâu sau, Đức Tổng giám mục Sapieha giáo phận Krakow được báo cho biết là Wojtyla muốn trở thành linh mục.

Chủng viện bí mật

Đức Adam Sapieha, giám mục tông toà Krakow là một nhà quý tộc, một người yêu nước và một chính trị gia. Ở tuổi 72 ngài trụ lại cách cương quyết ở chức vụ mình khi quân đội Hitler tiến vào thành phố. Ngài giữ liên lạc với các nhóm kháng chiến, với chính phủ Ba Lan lưu vong ở Luân đôn và với Vatican. Ngài giúp đỡ riêng tư cho người Do Thái bằng cách cho phép phát hành các giấy chứng nhận rửa tội để bảo vệ họ thoát khỏi những cuộc truy lùng của bọn Quốc xã.

Trong thời chiếm đóng, quân Quốc xã ra sắc lệnh cho Giáo hội không được tiếp tục đào tạo các chủng sinh. Đức Sapieha bất chấp, thiết lập một chủng viện ngầm để bảo đảm cho Giáo hội một lưu lượng liên tục các ứng viên linh mục.

Wojtyla gia nhập chủng viện bí mật của Đức Tổng giám mục vào tháng Mười 1942. Lớp học được mở tại các tu viện, nhà thờ và tư gia. Mỗi sinh viên có một giáo sư được chỉ định để trông nom kềm cặp riêng từng người. Các sinh viên được chỉ thị giấu người quen kẻ biết việc học hành của mình.

Vào ngày “Chủ Nhật Đen” 6 tháng Tám 1944, mật thám SS và Gestapo bố ráp mọi đường phố nhằm đập tan bất cứ sự phối hợp nào của kháng chiến Ba Lan. Hơn tám ngàn người lớn và thiếu niên bị câu thúc.

Wojtyla đang cùng với các bạn trong căn hộ mình, nghe tiếng la hét và bước chân rầm rập của lính Đức. Đang khi anh cầu nguyện trong phòng thì những người khác cùng chờ đợi với anh, tê liệt vì sợ hãi.

Trên đầu mình, họ nghe lính Đức ra lệnh tiến lên cầu thang, nhưng trong lúc vội vã, vì lý do nào đó mà chúng không lùng sục tầng hầm của chung cư.

Ngày kế tiếp, Wojtyla, né tránh các đợt tuần tra quân sự, tìm đường tới toà tổng giám mục, nơi Đức Sepieha dấu các chủng sinh trẻ. Sau cùng, trong nơi kín đáo của chủng viện bí mật, Wojtyla khoác lên người chiếc áo tu sĩ mà mẹ anh đã muốn anh mặc.

Đức Sepieha đặc biệt trông nom Wojtyla. Họ thường dùng điểm tâm với nhau. Ngài yêu thích chàng thanh niên gầy gò, trầm mặc và sau đó, tên của Wojtyla được xóa khỏi danh sách các công nhân công ty hoá học Solvay.

Ít tháng sau, vào tháng Giêng 1945, khi sức kháng cự của Đức đối với quân Đồng minh bị bẻ gãy, Krakow được Hồng quân Nga giải phóng. Karol Wojtyla có thể chấm dứt việc học của mình tại Đại học Jagiellonian, và vào ngày 1 tháng Mười Một 1946, được Tổng giám mục Sapieha truyền chức.

Việc thất trận của Quốc xã không giải phóng được Giáo Hội – hoặc Ba Lan – khỏi áp bức. Sự củng cố có tính cách Stalinnít tại Đông Âu và Trung Âu rất nhanh chóng và thật ác liệt. Nhưng tại Ba Lan, Giáo hội hậu chiến lập tức trở thành tiếng nói đối lập thầm lặng.

Trải qua nhiều thế kỷ, trong chiến tranh và chia cắt, văn hoá Ba Lan và giai cấp nông dân đã trở thành gắn bó một cách không thể tháo gỡ với Giáo hội, vốn luôn luôn đứng trên căn bản chống lại kẻ xâm lăng và những người bản xứ ngoại đạo. Với dân số Công giáo tràn ngập, Ba Lan có tính cách độc nhất. Các lãnh tụ thịnh nộ của Bộ chính trị ở Mátcơva không thể hiểu cách giản dị rằng Giáo hội Công giáo tại Ba Lan là một sức mạnh.

Sau một năm rưỡi du học ở Roma, Wojtyla trở về Ba Lan. Để tạo cho Wojtyla dễ dàng hội nhập vào hàng ngũ Giáo hội, Đức Sapieha, lúc này đã là hồng y, chọn cho linh mục ấy một họ đạo ở thôn quê cách Krakow 50 cây số. Làng đó có 200 dân và một ngôi nhà thờ gỗ.

Nhiều người kể lại câu chuyện về cách mà Wojtyla, một linh mục gầy gò trong chiếc áo thầy tu sờn vải, lúc đến mang hành lý của mình trong một túi xách thể thao, lê bước chầm chậm dọc theo con đường không có lề đường.

Trong bảy tháng, Wojtyla nếm mùi kinh nghiệm mục vụ: làm phép rửa tội, nghe xưng tội, cử hành lễ cưới và đám ma, viếng kẻ liệt, dâng Thánh lễ, chăm sóc cuộc sống tinh thần cho các bổn đạo nhà quê.

Chính trong ngôi làng quê mùa này mà vị linh mục trẻ nếm trải kinh nghiệm đầu tiên cùng cách hoạt động của guồng máy Stalinnít. Khi cơ quan công an mật muốn giải tán Đoàn Thanh niên Công giáo địa phương, thí dụ, họ yêu cầu một trong các thành viên cung cấp tin tức về toàn nhóm. Người thanh niên ấy từ chối.

Vào một buổi tối, công an bắt anh ấy lên xe, mang anh đến làng bên và đánh đập anh nặng nề. Anh trở về làng sáng hôm sau trong cơn chấn động.

Wojtyla an ủi người ấy và nói về những người Cộng sản:

– Stanilaw, anh chớ lo. Rốt cuộc họ sẽ tự kết liễu họ thôi.

Tháng Ba năm 1949, Đức Hồng y Sapieha thuyên chuyển Wojtyla tới giáo xứ đại học St. Florian ở Krakow. Vị hồng y lão thành nhận ra là ở nơi đó, cha Karol có thể triển khai trọn vẹn mối quan hệ tuyệt vời của ngài với thanh niên.

Wojtyla bắt đầu làm những chuyến đi tới núi non hoặc sông hồ với các thanh niên nam nữ trong đại học. “Các cô và các cậu” – qua cách mà ngài nói với họ – cảm thấy sự nồng ấm đặc biệt đối với ngài. Hằng ngày, ngài bắt đầu với Thánh lễ, rồi dẫn đầu một đoàn dài các trại sinh leo núi hoặc bơi thuyền.

Ngài mặc quần áo như người thường, thường là áo thun và quần cụt để che giấu hành tung của một linh mục. Chính quyền nghiêm cấm giáo sĩ không được hướng dẫn các nhóm thanh niên ở bên ngoài nhà thờ của mình. Các sinh viên gọi ngài là “chú” – phần vì yêu mến, phần vì tránh bị nghi ngờ.

Ngài thường chọn riêng ra một sinh viên để suốt ngày trải qua những giờ tận tâm cách riêng với mỗi người. Thanh niên cởi mở với ngài và thẳng thắn thảo luận về mọi loại vấn đề – kể cả cuộc sống tình ái của mình.

Năm 1954, Wojtyla bắt đầu giảng dạy môn luân lý tại Đại học Công giáo Lublin. Ngài thường đội mũ bê rê màu đỏ tiá vui nhộn, đeo kính gọng sừng và chiếc áo dòng màu đen sờn vải từ thuở ngài thường hay quì gối.

Tại đại học, ngài tham gia một nhóm nhỏ các giáo sư bí mật tụ họp thảo luận về tình trạng gay go của Giáo Hội. Không khí chính trị và tôn giáo tại Ba Lan trở nên quyết liệt hơn. Các tu sĩ bị bắt bớ. Tuần báo Công giáo ở Krakow bị đóng cửa vì từ chối đăng lời cáo phó Stalin ngay trang đầu.

Khi Giáo hội Công Giáo chiến đấu tìm cách chung sống với Cộng sản, Karol Wojtyla, một linh mục ít người biết tới của Krakow, sắp đặt bước chân đầu tiên của mình lên điểm ánh đèn sân khấu rọi sáng.

Người chưa thể lường trước

Ngày 4 tháng Bảy 1958, Wojtyla được triệu tập khẩn cấp tới nơi ở tại Warsaw của Đức Hồng y Wyszynski, giáo chủ, cũng là nhà lãnh đạo Giáo hội. Suốt mười năm, Đức Wyszynsky là biểu tượng cho Giáo hội Công giáo Ba Lan. Bằng những ứng xử khôn khéo và ngoan cường, bằng con đường ngoại giao, ngài bảo vệ truyền thống độc lập của Giáo hội.

Lúc này, Đức Wyszynski lẹ làng đưa mắt nhìn vị linh mục trẻ rám nắng, kẻ mà ngay trong chiếc áo dòng của mình cũng cho thấy sự cường tráng và lực lưỡng. Đức Hồng y không hiểu nhiều về người trẻ tuổi này ngoại trừ số tuổi của người ấy, 38, và việc ngài bị người ấy ngắt lời trong một cuộc tỉnh tâm của một nhóm thanh niên.

Wyszunski đưa bàn ta xương xẩu của ngài cầm một tờ giấy lên khỏi mặt bàn. Ngài mở lời:

– Đây là một lá thư ưu ái mà Đức Thánh cha gởi cho chúng ta. Xin hãy nghe: ‘Tôi chỉ định Linh mục Karol Wojtyla làm Giám mục Phụ tá Giáo phận Krakow; xin vui lòng chấp thuận sự chỉ định này’.

Đức Hồng Y nhìn Wojtyla ngưng lại để xem xét phản ứng của vị linh mục trẻ, rồi hỏi:

– Cha có chấp nhận không?

Wojtyla thưa vâng. Ngày 28 tháng Chín 1958, Karol Wojtyla được truyền chức giám mục tại Nhà thờ Chánh toà Wawel ở Krakow.

Chưa đầy hai tuần sau, ngày 9 tháng Mười, Đức Thánh cha Piô XII qua đời ở tuổi 82, và ngày 28 tháng Mười các hồng y bầu Đức Angelo Giuseppe Roncalli, 76 tuổi, lấy danh hiệu là Đức Thánh cha Gioan XXIII. Chỉ mới nội trong ba tháng đầu, vị tân Đức Thánh cha này đã triệu tập một Công đồng toàn thế giới. Thiệp mời gởi tới cho 2.594 giám mục khắp thế giới, trong đó có Đức Karol Woltyla.

Giáo hội Công Ggáo là một định chế luôn luôn có khuynh hướng xem rất trọng tính liên tục. Nhưng hội nghị của các thủ lãnh Công giáo từ tháng Mười năm 1962 đến tháng Mười hai năm 1965 được xem chính xác như một đoạn tuyệt căn bản với quá khứ. Công đồng Vatican II là một cuộc cách mạng.

Tại Vatican II, chủ trương chuyên chế của trung ương – bộ máy thư lại toà thánh tại La Mã hàng thế kỷ độc đoán cùng sự bắ t buộc tôn trọng tuyệt đối các luật lệ của cuộc sống Công giáo – bị tước bỏ. Công đồng phá vỡ kiểu thức của một Giáo hội kế thừa từ Thời đại Phục hưng của Công đồng Trentô (1545-63), và cho phép nối lại tình hữu nghị với các giáo hội Thệ phản (Tin lành) và Chính thống giáo phương Đông và từ bỏ chủ nghĩa chống Do Thái.

Khi Giám mụ c Wojtyla lần đầu tiê n đến La Mã, vị giáo sĩ 42 tuổi này là một người chưa ai lường trước được. Nhưng công đồng sẽ thay đổi cuộc đời của vị ấy. Các buổi hội luận của công đồng là trường học lớn lao cho ngài. Ngài quan sát, lắng nghe và học hỏi. Từ ghế ngồi của mình trong Vương cung Thánh đường Thánh Phêrô, ngài là chứng nhân các cuộc đối đáp, những tràng vỗ tay thắng lợi, những bùng nổ thịnh nộ, và sự thành hình các khối phiếu thể hiện lề lối dân chủ nghị trường của Giáo hội.

Ngài bắt đầu tiếp xúc với những khuôn mặt có ảnh hưởng trong Giáo hội. Tại La Mã ngài gặp lại người bạn cũ, Cha Adrzej Maria Deskur từng cùng ngài theo học ở chủng viện và có một am hiểu sâu xa về trung ương. Cha Deskur giới thiệu Đức Wojtyla với những khuôn mặt chủ yếu trong các nhóm ở Vatican. Cha Deskur kể lạI:

– Mỗi ngày thứ hai tôi hỏi ngài muốn gặp ai, và Karol đưa cho tôi một danh sách.

Tại Công đồng Vatican II, những người Ba Lan là phái đoàn quan trọng ra đi từ thế giới cộng sản, và chẳng bao lâu, Đức Wojtyla trở thành một trong các người phát ngôn của phái đoàn.

Vị tân giám mục của Krakow bắt đầu lôi cuốn sự chú ý. Ngài nổi bật trong sự kính mến của Công đồng vì kiến thức, khả năng lắng nghe của ngài và việc ngài coi thường tính chất tinh thần của chủ nghĩa cộng sản.

Dù đôi khi bị đánh giá là người theo những nguyên tắc trừu tượng, quá cách biệt với chính trị, Đức Wojtyla biết cách sử dụng uy lực của các ý nghĩa tượng trưng. Khi ngài chính thức trở thành tổng giám mục của Krakow, ngài khải hoàn bước vào Nhà thờ Chánh toà Wawel, mặc phẩm phục được trao cho các tổng giám mục vốn có nguồn gốc từ thời Trung cổ.

Phẩm phục tráng lệ ấy của Đức Wojtyla tiêu biểu cho gần một ngàn năm lịch sử Ba Lan. Nó không chỉ là tôn trọng truyền thống mà còn là cách nhắc nhở các tín đồ và “những người ngoại giáo” đang nắm quyền rằng Giáo hội của Ba Lan là của dân tộc, và lịch sử của Ba Lan đã không thể hiện hữu nếu tách biệt khỏi Giáo hội.

Sự thách thức của Đức Wojtyla còn công khai hơn. Từ những ngày mới làm giám mục, ngài đã dài ngày vận động cố sở đắc cho được giấy phép dựng một nhà thờ tại Nowa Huta, một thành phố xã hội chủ nghĩa kiểu mẫu do Cộng sản xây dựng sát bên trong địa giới của giáo phận Krakow.

Khi chính quyền không giữ lời hứa, vào dịp lễ Giáng sinh ngài đến khu vực đã hứa cho xây nhà thờ và cử hành Thánh lễ nửa đêm ngoài trời trong tuyết lạnh.

Ngài tới tấp đòi hỏi giới cầm quyền bằng một chuỗi thỉnh nguyện kiên định và các yêu cầu về các chủng viện mới, nhà thờ mới và những cuộc rước kiệu công khai. Ngài phản đối toan tính của chính quyền ngăn chận việc dạy giáo lý cho trẻ em.

Tính cách độc lập và cá tính của vị Tổng giám mục này đã sớm được nhận biết. Năm 1967, Đức Phaolô VI phong ngài làm Hồng y. Từ đó trở đi, cảm tình giữa Đức Phaolô VI và vị Tổng giám mục 47 tuổi của Krakow này ngày càng gia tăng, và ngài trở thành vị khách được ái mộ của Đức Thánh cha.

Trong các chuyến đi La Mã, ngài thường viếng thăm Đức Phaolô VI bằng những cuộc tiếp kiến riêng tư. Và lúc ấy cả hai có sự hợp tác đặc biệt trong một thông điệp giáo hoàng đánh dấu một bước ngoặt, Humanae Vitae (Sự sống Con người). Có thể thấy dấu vết của vị Hồng y ở Krakow trong thông điệp ấy mà hầu hết nội dung duy trì sự nghiêm cấm của Giáo hội về các cách thức ngừa thai nhân tạo.

Tại Vatican, Đức Wojtyla nổi tiếng như một triết gia và một người sử dụng dễ dàng nhiều ngôn ngữ châu Âu khác nhau: Tây Ban Nha, Nga, Pháp, Anh, Ý và Đức ngữ. Ngài cũng nổi tiếng về sức quyến rủ lạ thường của mình đối với giới trẻ.

Với các hồng y khác, vị Hồng y Ba Lan này vẫn còn điều gì như một cuốn sách chưa lật ra. Ngài nồng nàn trong những trao đổi riêng tư nhưng hiếm khi vui vẻ. Trong khi khao khát được lắng nghe lời người khác, ngài vẫn là kẻ thui thủi một mình. Một số người biết là ngài đã mất mẹ, anh và bố từ những năm tuổi nhỏ, nhưng ngài không bao giờ đề cập đến chuyện ấy. Thực tế, ngài chẳng sở hữu gì ngoài sách và những chiếc áo dòng, một ít vật kỷ niệm của gia đình, giày trượt tuyết và quần áo leo núi.

Ngài cũng sớm được chú ý đến bên ngoài Vatican. Vào năm 1976, báo New York Times xếp ngài vào danh sách mười ứng viên thường được đề cập nhất để kế vị Đức Phaolô VI. Dù Đức Hồng y Albino Luciani đã được bầu khi Đức Phaolô VI qua đời vào tháng Tám 1978, những vị bên trong Giáo hội đều đồng ý v ới nhau rằng “ngôi sao Wojtyla đang lên”.

Đức Thánh cha

Người tài xế nhớ lại, tác động của tin Đức Thánh cha từ trần làm cho Đức Wojtya nhức một bên đầu. Suốt ngày vị Hồng y Krakow bị căng thẳng. Ngài biết là mình sắp sửa không thể nào tham dự các buổi họp kín của Hồng y đoà n như là một khán giả thuần túy.

Dạo tháng Tám gần như việc bầu chóng vánh Đức Gioan Phaolô I thật sự là một phép lạ. Chỉ bốn vòng bỏ phiếu, các Hồng y đã đồng ý chọn ngài. Nay phải tìm cho ra một tên tuổi khác.

Việc ấy có thể làm mệt phờ người. Chính thức, các Hồng y tin vào Chúa Thánh linh, nhưng các vị hiểu rằng diễn tiến bầu cử vị giáo chủ tối cao sẽ tác động đến mọi sự kiên định, khéo léo và có khi có khả năng tạo hiềm khích với nhau.

Một lần nữa người Ý cố đặt một đồng bào của mình lên, nhưng Đức Wojtyla đã thành một ứng viên đáng chú ý. Ngài biết là có một vị Hồng y nhiều ảnh hưởng đang vận động cho mình: Đức Franz Konig của Vienna (Áo). Nhân vật cao lớn, bệ vệ này có 20 năm kinh nghiệm trong Hồng y đoàn. Ngài và vị Hồng y Krakow hiểu nhau rất rõ. Trong các lần Đức Wojtyla viếng thăm La Mã, cả hai đã có những cuộc thảo luận rất lâu về tình hình Đông Âu, đặc biệt tại các xứ sở mà phần lớn hoạt động của Giáo hội bị hạn chế trong thầm lặng.

Đức Konig thuyết phục nhiều Hồng y ở La Mã là vị Thánh cha sắp tới phải là người trẻ, mạnh khỏe và không là người Ý. Sau cái chết của Đức Phaolô VI, Đức Konig từng tuyên bố là các Hồng y Đông Âu cũng có quyền có ứng viên của mình.

Nếu có ai hỏi tên, Đức Konig đưa Wojtyla ra. Và từ từ, ngài để lộ lời Đức Phaolô VI nói về vị Hồng y ở Krakow rằng:

– Vị ấy là một người dũng cảm và đáng ca ngợi.

Nhưng khi thăm dò các đồng sự, Đức Konig thấy không có sự đồng tâm tức thời. Ngài càng đề cập tới, càng nhận ra là thật khó khăn khi đập vỡ cái khuôn rập hàng ngàn năm nay đòi hỏi vị Thánh cha phải là người Ý.

Đức Wojtyla nằm ngoài sự chú ý của mọi người, nhưng điều ấy không quan trọng gì. Đức Giám mục Deskur, người bạn và người đồng hương không mệt mỏi của ngài đã đóng vai người điều hành cuộc vận động và cũng nỗ lực để nhiều người ủng hộ khác nhau cùng đứng về phía Đức Wojtyla.

Rồi thì, chỉ một ngày trước khi bắt đầu hội nghị, Đức Deskur bị lên cơn đau tin nặng và từ đó chẳng bao giờ ngài hoàn toàn bình phục. Đức Wojtyla dịu dàng và lo âu thăm viếng ngài tại bệnh viện nơi ngài nằm điều trị. Để thư giản, Đức Wojtyla ra bãi biển. Chỉ ngay bên ngoài La Mã, mặt nước mùa thu lạnh lẽo mới đủ ấm cho nhân vật cô độc này, một người đến từ phương bắc đang vùng vẫy bơi lui bơi tới.

Trong vòng đầu phiếu đầu tiên, các Hồng y tụ họp tại Nhà nguyện Sistine. Các vị im lặng lắng nghe những luật lệ buộc phải giữ bí mật tuyệt đối, cấm mọi thông tin với thế giới bên ngoài. Không cho phép các máy truyền tin hai chiều cũng như không được ghi âm. Bộ phận bảo vệ của Vatican đã dùng các máy dò điện tử để lùng tìm các vật nghe lén.

Sau khi gặp nhau, mỗi Hồng y vào phòng hay ngăn ở dành riêng cho mình. Vào ngăn 91, vị Hồng y Krakow chú ý tới chiếc giường đơn, tủ để đồ và một chiếc bàn nhỏ.

Hôm sau, Chúa nhật ngày 15 tháng Mười, diễn tiến bầu cử bắt đầu. Cuộc bầu cử diễn ra cho thấy rõ là các ứng viên người Ý bị chia phiếu của nhau. Và những ứng viên đang loại trừ lẫn nhau đó không đạt kết quả trong việc giành được sự nhất trí mạnh mẽ.

Tính chất gay gắt của cuộc tranh đua bầu phiếu tương phản với sự trầm lặng không thực tràn ngập hội nghị. Thực tế, tại Nhà nguyện đường Sistine chỉ có tiếng kêu sột soạt của các lá phiếu khi xếp chúng lại và bỏ vào chén thánh được dùng làm thùng phiếu. Giữa cảnh im ắng này, đang trang trọng diễn ra cuộc chiến đấu cho tương lai của Giáo hội.

Vào tối Chúa nhật, rõ ràng là các ứng viên dẫn đầu đã đánh mất vị trí của mình. Ở vòng phiếu thứ tư, Đức Wojtyla nhận thêm được một ít phiếu, một điềm báo hiệu. Đức Konig cảm thấy sẵn sàng lao vào cuộc tiến công tối hậu.

Ngài nói với các Hồng y Đức, Pháp, Tây Ban Nha và Hoa Kỳ, luôn luôn bằng một thái độ tự nhiên như thể đó là vấn đề tầm thường nhất. Một ít lời trao đổi trong hành lang, trò chuyện trong khi rời phòng ăn, viếng thăm ngắn ngũi ngăn ở của một vị nào đó, ngài thận trọng và thuyết phục.

Sự căng thẳng rì rào khắp hội nghị khi các cử tri nghiêm trọng cân nhắc khả năng bỏ phiếu cho một vị không phải người Ý.

Ngày Thứ hai 16 tháng Mười, trong vòng phiếu thứ sáu – vòng cuối trước khi đi ăn trưa – các lá phiếu bầu cho hồng y Krakow đột nhiên tăng lên. Chiều ấy, sau hai vòng bầu nữa, Đức Wojtyla nghe xướng tên mình. Một đa số lớn lao các Hồng y đã làm điều không tưởng tượng nổi: các vị chọn một Đức Thánh cha từ một xứ sở có chính quyền Cộng sản vô thần, vị Thánh cha đầu tiên không phải người Ý tính từ suốt 456 năm qua, một Thánh cha trẻ 58 tuổi, kẻ khi còn đi học từng nói mình không thích làm linh mục.

Giữa sự thinh lặng ấy, nghe rõ tiếng vị Hồng y thị thần hỏi:

– Ngài có chấp nhận không?

Sự căng thẳng tan trên khuôn mặt của Đức Wojtyla, ngài trả lời nghiêm trang:

– Có. Với sự vâng phục trong đức tin vào Đức Kitô, Chúa chúng ta, và với sự tin tưởng vào Mẹ của Đức Kitô và của Hội thánh, bất chấp mọi khó khăn, tôi chấp nhận.

Và để vinh danh di sản của ba vị Thánh cha tiền nhiệm, ngài lấy danh hiệu Gioan Phaolô II.

Chỉ có nhịp mạch máu giật trên trán của Đức Wojtyla để lộ cơn bão trong tâm hồn ngài khi ngài chuẩn bị rời nhà nguyện ấy. Trầm lặng, ngài để cho mình được hộ giá tới phòng ngoài, được xem là camera lacrimatoria (phòng than khóc). Ở đây, vị tân Đức Thánh cha chờ đợi người thợ may toà thánh mặc thử cho ngài một trong ba loại áo chùng trắng – cỡ nhỏ, vừa hoặc lớn – đã được đặt sẵn ở đó.

Sau khi Đức Thánh cha Gioan Phaolô II mặc chiếc lớn nhất trong ba chiếc áo dòng ấy, các Hồng y lần lượt từng người tới bái ngài để tỏ lòng tôn kính. Sau đó, vị tân Đức Thánh cha tự mình bước quả quyết vào hành lang rộng lớn ngoài Vương cung Thánh đường Thánh Phêrô để chào La Mã và thế giới.

Ngày 22 tháng Mười, Đức Wojtyla xuất hiện tại Quảng trường Thánh Phêrô cử hành thánh lễ đăng quang ngôi Thánh cha của mình. Ngài có sự thoải mái của một nghệ sĩ vốn đã thuộc lòng vai tuồng của mình.

Khi các nốt nhạc của bài tụng ca kết thúc trong im lặng, vị giáo chủ tối cao phá vỡ truyền thống và bắt đầu tiến gần đến dân chúng chung quanh ngài. Bằng những bước dài, ngài đi nhanh qua quảng trường lúc các Hồng y đứng ngắm hết sức kinh ngạc. Ngài ôm một nhóm những người tật nguyền đang ngồi xe lăn. Ngài bắt tay, hôn các em bé và vỗ các lẵng hoa dân chúng dâng ngài.

Tiếp đến, ngài dồn ánh mắt của mình vào đám đông cuồng nhiệt, và cầm quyền trượng của mình bằng hai tay như một thanh kiếm, ngài vạch dấu hiệu chúc phúc đầy quyền năng.

Qua các vệ tinh, những tín hữu cũng như không phải tín hữu khắp thế giới quan sát nghi lễ trang trọng ấy. Tại Ba Lan, thực tế mọi người đều dán mắt vào máy truyền hình của mình. Toàn bộ sinh hoạt xứ sở dường như tạm ngưng lại.

Ngày 5 tháng Mười một, Đức Wojtyla thăm Assisi, thành phố của Thánh Phanxicô, vị thánh đỡ đầu nước Ý. Nhiệt tình của đám đông khi gặp ngài thật cuồng nhiệt. Với sự tưng bừng hớn hở của đám đông ngân vang bên tai, Đức Thánh cha nghe ai đó la lớn:

– Xin đừng quên Giáo hội Thầm lặng!

Câu đó có nghĩa đề cập tới Giáo hội bị bách hại bên kia Bức màn sắt.

Không để lỡ nhịp hô, Đức Gioan Phaolô II đáp lại:

– Không còn Giáo hội Thầm lặng nữa, vì Giáo hội ấy nói với tiếng nói của tôi!

Ngài đã sẵn sàng để nhắc nhở các chế độ Cộng sản rằng có những Kitô hữu không có tự do ngôn luận. Và ngài sẽ cho thấy rất nhanh điều ngài muốn đề cập.

Đức Gioan Phaolô II sắp sửa đốt sáng ngọn lửa bên dưới hàng giáo phẩm Công giáo tại các nước Đông Âu. Với các giám mục Nam Tư, Hungary, Latvia và Lithuania, ngài hứa hỗ trợ và khuyến khích các vị ấy dũng cảm hơn trong việc đối phó với chế độ Cộng sản mà họ đang sống dưới chúng.

Trong lúc ấy, tại Mátcơva, cấp lãnh đạo đang đánh giá vị tân Thánh cha. Ngày 4 tháng Mười một 1978, Ủy ban Trung ương của đảng Cộng sản Sô viết nhận được bản báo cáo đặc biệt về vị tân giáo chủ này với những đúc kết tiên đoán về vai trò mới của ngài trong cương vị giáo hoàng, rằng “Wojtyla rõ ràng là sẽ ít muốn thoả hiệp (hơn trước đây) với cấp lãnh đạo các nhà nước xã hội chủ nghĩa”.

Có một điều mà bản báo cáo ấy không thấy trước được là Đức Gioan Phaolô II sớm sủa nhận lời thách đấu biết chừng nào.

Các tuyến mặt trận

Thách đố đến với hình thức chiếc phi cơ phản lực màu trắng Alitalia bắt đầu hạ cánh xuống phi trường Warsaw ngày 2 tháng Sáu 1979. Trên máy bay, Đức Thánh cha bồn chồn ôn lại bản sơ thảo bài diễn văn đầu tiên của mình. Ngài nói:

– Tôi trở lại. Tôi sắp gặp gỡ Giáo hội mà từ đó tôi xuất thân.

Nhưng không ai hiểu hết cuộc viếng thăm này của ngài sẽ tác động tới mức nào.

Khi Leonid Brezhnev, lãnh tụ Sô viết, nghe tin chính phủ Ba Lan đang thương thảo về thời gian thăm viếng của Đức Thánh cha, y giận dữ điện thoại cho đệ nhất bí thư của Warsaw và truyền lệnh là không được đón nhận ngài.

Viên bí thư ấy trả lờI:

– Làm thế nào tôi không thể tiếp đón vị Thánh cha người Ba Lan khi đại đa số đồng bào tôi là người Công giáo? Xin lỗi đồng chí Leonid, tôi không thể từ chối Đức Thánh cha.

Brezhnev nói cách xui xẻo:

– Cứ làm điều ngươi muốn nhưng hãy cẩn thận và về sau chớ hối tiếc!

Năm 1966, đảng Cộng sản ở Warsaw từng từ chối chấp thuận cho Đức Thánh cha Phaolô VI thăm viếng. Nay lịch sử đã phục thù.

Sau khi vào không phận Ba Lan viên phi công chiếc Alitalia lái bay vòng trên thành phố Krakow. Đức Thánh cha nhìn xuống quang cảnh rất quen thuộc phía dưới; ngọn đồi hùng vĩ Wawel Castle và nhà thờ chánh toà; chỗ rẽ mênh mông của sông Visula nơi ngài từng tản bộ với bố mình; khu kỹ nghệ nằm trườn ra ở vùng ngoại ô Nowa Huta, “thành phố mới của công nhân” nơi người Cộng sản thuở trước từ chối không cho ngài xây nhà thờ. Từ trên không, ngài có thể nhìn thấy nhà máy hoá học già nua Solvay, toà nhà gạch đỏ nhếch nhác nơi ngài làm việc cực nhọc trong thời Quốc xã chiếm đóng.

Lúc 10 giờ 7 phút sáng, máy bay của Đức Thánh cha đáp xuống thủ đô Ba Lan. Vào lúc ấy, chuông các nhà thờ Ba Lan reo lên. Từ biển Baltic đến các ngọn núi Tatra, từ Silesia đến biên giới Liên bang Xã hội Chủ nghĩa Sô Viết, chuông thánh đường dội vang khắp xứ sở.

Tại phi trường, ban thánh ca Sinh viên Công giáo trổi lên điệu ca thời trung cổ “Gaude, Mater Polonia” (Vui lên, Mẹ Ba Lan ơi!), và khắp toàn cõi Ba Lan dường như biến mất lá cờ đỏ cộng sản. Chỉ còn lại các biểu ngữ của quốc gia Ba Lan và của Vatican.

Giữa hàng ngàn người Ba Lan bu quanh các con dường vào phi trường để nhìn Đức Thánh cha, có Zbigniew Bujak. Đó là nơi cuối cùng đáng cho anh đến. Anh là một người bị tình nghi. Công an mật đang đánh hơi anh, lập hồ sơ về anh. Mới đây anh đã tham gia thành lập một nhóm nghiệp đoàn bất hợp pháp.

Khi Đức Thánh cha đi qua trên một chiếc xe jeep nhà binh màu trắng, tiếng la hét của đám đông điếc cả tai. Bujak xúc động vì nụ cười của Đức Wojtyla khi ngài chúc phúc cho đám đông cuồng nhiệt. Bỗng nhiên, anh nhận ra rằng, ” Đây cũng là một cuộc biểu tình chống cộng sản,” và anh cảm thấy có một sức mạnh nâng mình lên.

Khi đến Quảng trường Castle, ngay lối vào Khu Phố Cổ Warsaw, xe Đức Thánh cha chạy lên trên những sỏi lát đường trải đầy các vòng hoa. Vừa thấy nhà thờ chánh toà, gương mặt của Đức Thánh cha mất vẻ biểu lộ quả quyết, và nước mắt bắt đầu tuôn ướt đẫm má. Đức Wojtyla dùng lưng bàn tay quệt nước mắt.

Vì đây là Thánh lễ đầu tiên Đức Karol Wojtyla cử hành tại Ba Lan trong cương vị Đức Thánh cha, các giám mục xây cất một khán đài khổng lồ ngay trung tâm Quảng trường Victoria, nơi mai táng Người Chiến sĩ Vô danh Ba lan. Bình thường chính phủ chỉ dùng quảng trường này để diễn binh. Lúc này, ba đợt cầu thang dẫn lên bàn thờ có cắm cây Thánh giá bằng gỗ cao 11 thước. Quảng trường rộng thênh thang ấy, thường là biểu tượng của sức mạnh Cộng sản, nay đã trở thành một chốn thờ tự tôn giáo.

Khi Đức Thánh cha đến quảng trường lúc bốn giờ chiều, đã có 300.000 người đợi sẵn. Mọi điều Đức Thánh cha nói trong bài giảng đều báo hiệu sự bắt đầu một chuyển hướng cho Giáo hội – tại Ba Lan, tại phần còn lại của Đông Âu, tại Liên bang Sô viết, và trong bang giao quốc tế.

Giáo hội không còn chỉ giản dị đòi hỏi không gian sống cho chính mình. Qua Đức Thánh cha này, Giáo hội đòi hỏi tôn trọng quyền con người cũng như các giá trị Kitô giáo, tôn trọng đàn ông, phụ nữ và trẻ em. Những đòi hỏi này thể hiện một cuộc đổ bộ trực tiếp vào những khoác lác khắp thế giới của hệ tư tưởng Mác-xít mà lúc này đã trở thành chiếc vỏ ốc rỗng tuếch.

Khi Đức Gioan Phaolô II nói, mọi người có thể cảm thấy có một loại điện từ liên kết trọn vẹn diễn giả và cử tọa. Mười phút vỗ tay không ngừng đã làm chìm khuôn mặt nhỏ bé của Đức Thánh cha đang đứng thẳng người trong đám đông khổng lồ.

Lạc loài trong buổi hành lễ là các đại diện cao cấp của đảng Cộng sản. Họ quay về các sở chỉ huy ủy ban trung ương, căng thẳng dán sát mắt vào máy truyền hình của mình. Các ống kính máy thu hình của nhà nước chỉ được phép hướng một bề vào Đức Thánh cha và đoàn tùy tùng, không được quây đám đông mênh mông đang tham dự buổi tụ họp tôn giáo lớn lao nhất tại Đông Âu tính từ trước Thế chiến Hai.

Các bản báo cáo đầy hoảng hốt xuất phát từ chuyến đi ấy của Đức Thánh cha. Tại Lithuania, hàng trăm ngàn tín đồ lắng nghe các chương trình truyền thanh từ Warsaw, và các nhà thờ chật ních vì Thánh lễ tôn vinh Đức Thánh cha. Tại Latvia và Estonia cũng thế, dân chúng xem chương trình truyền hình phát đi từ Phần Lan.

Tại Mátcơva, giới lãnh đạo hàng đầu Sô viết cũng quan sát. Và tại Hoa Kỳ, trong số những người đang chứng kiến biến cố ấy bằng máy truyền hình là Ronald Reagan tại hàng hiên nông trại của ông ở Santa Barbara, California. Cùng xem với ông là Richard Allen, người sau này trở thành cố vấn an ninh quốc gia đầu tiên của ông. Ngồi trước máy truyền hình xách tay, họ quan sát đám đông Ba Lan đang trong trạng thái say sưa chất ngất. Mắt của Reagan đẫm lệ.

Cuộc khải hoàn trở về quê mẹ của Đức Gioan Phaolô II đã khiến cho nhà cầm quyền Cộng sản ở Warsaw và Mátcơva rúng động. Họ choáng váng khi Đức Thánh cha ra điều kiện cho người Cộng sản nếu muốn chung sống hoà bình với Giáo hội: ”Từ nay phải làm kẻ bảo đảm cho các quyền con người cơ bản – mà người Cộng sản không thể nào tưởng tượng nổi – tại bất cứ nơi nào trong khối Đông”.

Trong chuyến đi của ngài, Đức Thánh cha gặp gỡ các công nhân quận Nowa Huta. Những kinh nghiệm công trường của mình đã cho Đức Gioan Phaolô II một am hiểu mà không vị Thánh cha người Ý nào từng có. Ngài phát đi một thông điệp sấm sét: “Không được ngược đãi công nhân bằng cách xem họ đơn thuần là phương tiện sản xuất!”

Sau cùng, ngày 10 tháng Sáu, loé lên tính cách cách mạng tại một xứ sở xã hội chủ nghĩa. Hơn một triệu tín hữu đến đồng cỏ ở Krakow lắng nghe thông điệp từ biệt của Đức Thánh cha.

Ngài nói lớn:

– Anh chị em thân mến! Anh chị em phải dũng cảm với sức mạnh tuôn trào từ đức tin! Không việc gì phải sợ hãi. Các ranh giới phải được mở ra.

Khi Đức Thánh cha tiến lên bàn thờ, hai quả bong bóng được thả lên trời, mang biểu hiệu cuộc kháng chiến của Ba Lan trong thời Thế chiến Hai: một chữ “P” trên một chữ “W”. Có nghĩa “Ba Lan tiếp tục chiến đấu.”

Đã vạch ra các tuyến mặt trận. Đức Thánh cha chống lại Đế quốc Sô viết.

Công đoàn Đoàn kết

Năm 1980, một năm sau chuyến viếng thăm của Đức Thánh cha, kinh tế Ba Lan bị suy sụp trầm trọng, hậu quả của nhiều năm quản lý tồi tệ. Hàng triệu công nhân xí nghiệp khắp xứ sở đều bất mãn. Những cuộc đình công tự phát bắt đầu vào tháng Bảy 1980, đến đầu tháng Tám, lan tràn tới 150 xí nghiệp gồm cả Nhà máy Đóng tàu Lênin ở Gdansk.

Trong lúc Đức Thánh cha làm việc ở văn phòng của mình tại La Mã thi ở Ba Lan, một người thợ điện lực lưỡng, thất nghiệp, với hàng ria mép đặc biệt, đang leo lên một chiếc xe xúc ở Nhà máy Đóng tàu Lênin. Thoạt đầu, công nhân trong nhà máy đóng tàu quan trọng nhất của Ba Lan này ít có thiện cảm với cuộc đối đầu ấy. Họ nhớ năm 1970 công an đã tàn sát hàng tá công nhân đình công dọc theo bờ biển Baltic.

Viên giám đốc nhà máy đóng tàu cũng hứa sẽ thảo luận tăng lương nếu công nhân quay lại làm việc. Nhưng Lech Walesa sáng đó đã leo lên bức tường cao ba mét rưỡi của sân nhà máy và lúc này đứng trên đầu chiếc máy xúc, phản đối kịch liệt viên giám đốc, và kêu gọi đình công.

Ông là một khuôn mặt nổi tiếng trong công nhân, và khi ông nói những người đình công sẽ tự giam mình trong nhà máy đóng tàu để tự bảo vệ mình trước các lực lượng an ninh, đám đông lưu ý tới lời kêu gọi của ông.

Hôm sau, 15 tháng Tám, Đức Thánh cha phái thư ký của mình, Đức ông Stanislaw Dziwisz, đi Ba Lan “để nghỉ ngơi ngắn hạn”. Dziwisz là một trong những phụ tá được tín nhiệm và giá trị nhất của ngài, và sẽ là tai mắt của ngài.

Tại nhà nghỉ mùa hè dành cho mình ở Castel Gandolfo, Đức Thánh cha xem các phóng sự truyền hình về những biến cố tại quê nhà. Hình của Đức Thánh cha và ảnh Đức mẹ Sầu bi của Tiệp Khắc, một họa phẩm nổi danh về Mẹ Maria Đồng trinh, được trưng bày ở cổng vào nhà máy đóng tàu.

Các chính trị gia Tây phương kinh ngạc trước cảnh công nhân đình công tụ họp quì gối xưng tội ứng khẩu ngoài trời và quanh các biểu tượng tôn giáo mà họ đã chọn làm thước đo tranh đấu. Cuộc đình công lan tràn khắp nước. Số người đình công lên đến 300.000.

Suốt một tuần lễ, Đức Gioan Phaolô II giữ im lặng. Tuy thế, ngày Thứ tư 20 tháng Tám, khi phong trào đình công đe dọa sẽ sách động để đưa tới một tình trạng tê liệt chính trị dài hạn, Đức Thánh cha dâng hai lời cầu nguyện ngắn với một nhóm người hành hương Ba Lan ở Quảng trường Thánh Phêrô. Ngài tóm kết:

– Hai lời cầu nguyện này biểu lộ rằng tất cả chúng ta ở tại La Mã này hiệp thông với đồng bào mình tại Ba Lan, cách riêng với Giáo hộI Ba Lan, mà những vấn đề của nó gần gũi biết bao với con tim của chúng ta.

Như thế, ngài đã công khai ban phép lành cho cuộc đình công.

Cùng ngày ấy, Đức Thánh cha gởi Hội đồng Giám mục Giáo hội Ba Lan một lá thư đầy tinh tế:

– Tôi cầu nguyện hết lòng mình rằng hàng giám mục Ba Lan tiếp tục giúp đỡ dân chúng trong cuộc đấu tranh khó khăn vì bánh mì hằng ngày, vì công bình xã hội, và vì sự bảo vệ những quyền bất khả xâm phạm để sống và để phát triển.

Tối đó, chính quyền Ba Lan đưa ra một nhượng bộ có tính lịch sử, đồng ý tham dự thương thảo trực tiếp với các ủy ban đình công tại Gdanks và những cơ sở lao động khác. Và ngày 31 tháng Tám, một thoả ước chưa từng có được ký ở Gdanks, cho phép thành lập đầu tiên ở bên trong Bức màn sắt một công đoàn độc lập. Công đoàn ấy được gọi là Đoàn kết.

Trong buổi lễ ký kết, Walesa trịnh trọng rút từ túi áo ra một cây bút lớn, màu sáng bóng. Cây bút ấy là món quà kỷ niệm chuyến đi Ba Lan của Đức Gioan Phaolô II, có hình của Đức Thánh cha trên bút.

Vào mùa thu 1980, các nhà lãnh tụ Cộng sản ở Đông Bá linh, Budapest và Prague than phiền Mátcơva về những diễn biến ở Ba Lan. Các nhà lãnh đạo điện Kremlin đề nghị “các bạn hữu Ba Lan” của họ cứu xét việc thiết quân luật và họ đề nghị khẩn trương chống lại Công đoàn Đoàn kết cùng những người ủng hộ nó.

Trong cuộc họp bất thường với Bộ Chính trị, các nhà lãnh đạo Cộng sản Ba Lan biện hộ cho chủ quyền của mình. Sau cùng, lãnh tụ Sô viết Leonid Brezhnev nhượng bộ và nói:

– Lúc này chúng tôi sẽ không tiến quân vào Ba Lan, nhưng nếu tình hình tồi tệ, chúng tôi sẽ làm.

Tháng Giêng 1981, Sô viết càng mất tinh thần hơn khi Lech Walesa du hành Vatican để gặp Đức Thánh cha và được ngài cử hành Thánh lễ riêng cho tất cả 14 thành viên của đoàn đại biểu Công đoàn Đoàn kết. Walesa làm cho báo chí cùng La Mã say mê y hệt cuộc viếng thăm của một diễn viên điện ảnh. Walesa nói:

– Đứa con đang đến gặp thân phụ của mình.

Liên minh

Trong nhiệm kỳ tổng thống đầu của Ronald Reagan, một người đàn ông râu cá ngạnh, ăn mặc lôi thôi với bộ đồ vét màu xám được đưa vào văn phòng giản dị của Đức Thánh cha ở Vatican. Đó là William Casey, một người Công giáo nhiệt thành, hầu như dự Thánh lễ hàng ngày, giám đốc Cơ quan Trung ương Tình báo Hoa kỳ (CIA). Ông đến với một sứ mệnh riêng biệt có tính cách toàn cầu.

Ông trao tận tay Đức Gioan Phaolô II một bức hình độc đáo đáng chú ý do vệ tinh gián điệp của Mỹ chụp được từ hàng trăm cây số cách mặt đất.

Tại bàn làm việc trong chỗ riêng của mình, Đức Thánh cha Gioan Phaolô II cẩn thận xem kỹ bức hình. Các chi tiết dần dà được tập trung lại: giữa vô số dân chúng, ngay tại trung tâm, có những chấm trắng chính là ngài đang đứng nói với đồng bào của mình tại Quảng trường Victory năm 1979.

Từ lúc vệ tinh Mỹ chụp hình Đức Thánh cha tại Ba Lan, Casey và Reagan tin chắc đã tiềm ẩn một siêu quyền lực thứ ba trên thế giới – thị quốc rộng 44 mẫu Vatican – và vương quyền của nó, Đức Thánh cha Gioan Phaolô II, đang làm chủ một nguồn vũ khí đặc biệt có thể làm lệch cán cân cuộc Chiến tranh lạnh.

Cuộc họp ấy mà suốt mười năm sau không được tiết lộ cho thế giới, Casey – bằng việc sử dụng bức hình ấy, và hơn nữa, bằng việc cho Đức Thánh cha thấy khả năng mà kỹ thuật vệ tinh tình báo cung cấp – đã giúp ký kết một liên minh giữa Toà thánh Vatican và Chính quyền Reagan.

Thực tế, trước ngày Reagan cầm quyền 20 tháng Giêng 1981, đã diễn ra tiếp xúc đầu tiên giữa chính phủ Hoa Kỳ và Đức Thánh cha. Zbigniew Brzezinski, một người sinh ở Ba Lan và là cố vấn an ninh quốc gia của Tổng thống Jimmy Carter, đã đại diện Hoa Kỳ dự lễ đăng quang của Đức Wojtyla lên ngai của Thánh Phêrô.

Vào tuần lễ đầu tháng Chạp năm 1980, Brzezinski điện thoại cho Đức Thánh cha cảnh giác ngài về nguy cơ một cuộc xâm lăng của Sô viết vào Ba Lan. Khi nói, Brzezinski nhìn vào các bức ảnh vệ tinh chụp những lều trại có thể xếp để di động, kế bên khu vực các bệnh viện Nga cạnh biên giới, chuẩn bị có thể xâm lăng. Đức Thánh cha bị rúng động.

Sô viết đã nhận được một chuỗi các lời cảnh cáo nghiêm trọng từ Tổng thống Carter và vị Tổng thống đắc cử Reagan, sợ rằng vào lúc gián đoạn giữa cuộc bầu cử và lễ đăng quang của Reagan có thể có nổ bùng tại Ba Lan. Đối mặt với những lời cảnh cáo ấy, Sô viết thoái bộ, nói rằng lúc này sẽ không có sự can thiệp nào.

Nhưng Reagan hiểu tức thời mối đe dọa liên tục mà Công đoàn Đoàn kết đặt ra cho Mátcơva. Mười ngày sau khi nhậm chức, ông họp với Richard Allen, phụ tá an ninh quốc gia của mình, và William Casey. Kết quả vị tân tổng thống ra lệnh là sự hỗ trợ cho Công đoàn Đoàn kết – vốn lâu nay chỉ phát xuất từ các phong trào lao động Hoa Kỳ – nay được cung ứng bằng tài khoản và chuyên biệt của chính phủ.

Đức Thánh cha là người hưởng lợi một số các bí mật cẩn trọng nhất của Hoa Kỳ: các tin tức từ vệ tinh và cơ quan tình báo, từ máy điện tử nghe trộm và từ những cuộc họp thảo luận về chính sách của Toà Bạch Ốc, Bộ Ngoại Giao và CIA.

Trong các cuộc nói chuyện thường xuyên, Đức Gioan Phaolô II về phần mình cập nhật cho Casey những tin tình báo mới nhất thu nhặt được qua mạng lưới thông tin riêng của ngài ở Ba Lan. Casey nhận biết rằng Đức Thánh Cha, qua hàng giáo phẩm của mình, biết Công đoàn Đoàn kết đang làm gì, và giới lãnh đạo Ba Lan đang nghĩ gì.

Các tin tức ấy thật vô giá. Khi mùa xuân 1981 đến ở Ba Lan thì nổ ra nhiều cuộc biểu tình hơn, và Công đoàn Đoàn kết hăm dọa một cuộc tổng đình công. Quân đội Sô viết lại nhận được lệnh tập trận.

Ngày 30 tháng Ba, Ba Lan và Đức Thánh cha chiếm lĩnh gần trọn tâm trí của Reagan. Không phận Ba Lan bị đóng cửa hai ngày trước để tạo thêm thuận lợi cho cuộc tập trận của các đội quân Liên sô.

Chiều đó, trong diễn từ nói với AFL-CIO (Tổng Liên đoàn Lao công Hoa Kỳ), Tổng thống Reagan ngưng lại để chào mừng các công nhân Ba Lan vì cuộc đấu tranh can trường của họ “như những vệ binh nhân danh các nguyên tắc nhân sinh phổ quát.”

Ít phút sau, trên đường ra xe riêng của mình, ông bị John Hinckley, Jr. bắn trọng thương.

Tại bệnh viện, Reagan trải qua cuộc giải phẩu. Viên đạn xuyên qua phổi và nằm sát bên trái tim, xém trúng động mạch chủ. Một số người cho rằng ông sống sót quả là phép lạ.

Liên quan người Bungari

Tại La Mã, Đức Thánh cha ngưng công việc lại để cầu nguyện cho Tổng thống Reagan được bình phục và gởi ông một thông điệp cá nhân với những lời cầu nguyện và hy vọng của ngài.

Đây là khoảng thời gian đầy âu lo. Không lâu trước đó, trong cuộc hội họp ở Vatican với phụ tá ngoại trưởng của Đức Thánh cha, William Casey từ giã với câu nói sau cùng là một lời cảnh báo. Trạm CIA ở La Mã đã chuyển về một bản tin lạ lùng, có thể là quan trọng. Khi Lech Walesa viếng thăm Đức Thánh cha, người chủ trì cho của ông ta là một nhân vật của Liên minh Lao động Ý. CIA được các viên chức phản gián Ý báo cho biết người chủ trì ấy hoạt động cho Bungari. Vì Bungari chịu sự kiểm soát của Sô viết nên có thể có nghĩa là các kế hoạch của Công đoàn Đoàn kết bị thiệt hại hoặc là Walesa đang bị nguy hiểm.

Lúc 5 giờ chiều ngày 13 tháng Năm 1981, Đức Thánh cha xuất hiện trong buổi tiếp kiến công chúng hàng tuần tại Quảng trường Thánh Phêrô. Sau khi vào cửa Popemobile, Đức Thánh cha đi qua dãy cột. Vị phụ tá Stanislaw Dziwisz ở kế bên ngài.

Đột nhiên Đức ông Dziwisz nghe một âm thanh điếc tai, và hết thảy chim bồ câu khắp quảng trường vụt bay lên. Liền đó, Đức Thánh cha sụm xuống gục vào người của Đức ông.

Đức Thánh cha trúng thương ở bao tử, cùi chỏ mặt và ngón trỏ bàn tay trái. Ngài được chuyền lên xe cứu thương chạy lẹ tới bệnh viện.

– Maria, mẹ ơi! Maria, mẹ ơi!

Đức Thánh cha lặp đi lặp lại lời kêu cầu đó. Ngài nhắm mắt, đau đớn cực kỳ. Tại Nhà thương Gemelli, Đức Gioan Phaolô II được đẩy gấp tới căn phòng ở tầng thứ mười dành cấp cứu cho Thánh cha và rồi tới phòng giải phẩu. Ngài mất nhiều máu và vì tình trạng trầm trọng, nghi lễ xức dầu được cử hành.

Cuộc giải phẩu kéo dài năm giờ 20 phút. Cắt đi hơn 56 phân ruột của Đức Thánh cha. Đức ông Dziwisz kể:

– Hy vọng dần dần trở lại trong suốt cuộc giải phẩu. Rõ ràng là không có bộ phận quan trọng nào bị trúng thương, và ngài có thể sống sót.

Giống như viên đạn suýt giết chết Ronald Reagan, viên đạn này chỉ trượt động mạch chủ vài li. Đức ông Dziwisz nhận xét:

– Nếu nó bị trúng phải thì chết lập tức. Nó không chạm trúng yếu điểm nào. Quả thật lạ lùng!

Còn Đức Thánh cha, ngài nói sau đó:

– Bàn này bắn còn bàn tay kia thì lái viên đạn!

Kẻ bóp cò súng bị bắt gần như tức khắc. Hắn bị nhận diện là Mehmet Ali Agca, một tên khủng bố người Thổ Nhĩ Kỳ. Trong chuyến viếng thăm Thổ Nhĩ Kỳ của Đức Thánh cha năm 1979, Agca đã công khai thề sẽ giết chết ngài.

Nhưng khi cuộc thẩm vấn bắt đầu. Lý do bên trong cuộc mưu sát Đức Thánh cha này trở thành một trong những bí mật lớn lao không giải quyết được của thế kỷ 20.

Các phụ tá và những người quen biết thân cận với Đức Thánh cha tin là Sô viết hoặc đồng minh của họ đứng đằng sau vụ nổ súng. Thật ra, sau vụ toan tính sát nhân ấy, các điều tra viên tìm thấy bằng chứng lửng lơ không xác định được, gợi ra rằng Agca được thuê bởi cơ quan mật vụ Bungary, một công cụ hiển nhiên của KGB Sô viết.

Tháng Bảy 1981, một tùy viên Đại sứ quán Bungary ở Paris đào thoát và kể với cơ quan Tình báo Pháp rằng âm mưu giết Đức Thánh cha là do cơ quan mật vụ Bungary đảm trách theo chỉ thị của KGB. Người đào tị ấy nói mình biết được chuyện này qua người bạn, một viên chức cao cấp trong một đơn vị phản gián thuộc cơ quan tình báo Bungary.

Một số đoạn quan trọng nhất của biên bản ấy, nêu ra một âm mưu được Sô viết khơi mào cho người Bungary, được phổ biến trước hết trên tạp chí Reader’s Digest do Claire Sterling, một ký giả có hợp tác với các điều tra viên người Ý.

Giám đốc CIA Casey luôn luôn tin rằng Sô viết chịu trách nhiệm về mưu toan ám sát đó và xúc động với bản tường trình của Sterling. Trong số những người khác cùng tin như thế có cả Zbigniew Brzezinski và Henry Kissinger.

Dù sự thật như thế nào đi nữa, rõ ràng là cấp lãnh đạo Cộng sản Sô viết bận tâm về Đức Thánh cha – và thất vọng thấy nhà cầm quyền Ba Lan không thẳng tay đàn áp Giáo hội Ba Lan.

Bên bờ vực

Cả Tổng thống Ronald Reagan lẫn Đức Thánh cha Gioan Phaolô II đều chịu những biến chứng trầm trọng của vết thương do đạn bắn và phải dưỡng thương từ cuối mùa xuân cho đến hết mùa hè năm đó trong khi lòng họ âu lo cho Ba Lan.

Các biến cố tại Ba Lan diễn ra theo một tốc độ chóng mặt. Công đoàn Đoàn kết khai mạc hội nghị toàn quốc lần thứ nhất vào tháng Chín và kêu gọi công nhân các nước khác ở Đông Âu thành lập những công đoàn độc lập.

Đáp lại, Sô viết bắt đầu cuộc thao diễn quân sự lớn lao trong chín ngày tại Biển Baltic và dọc theo biên giới Ba Lan. Rất có thể có một cuộc thẳng tay đàn áp. Đức Thánh cha lại càng âu lo hơn. Vị cộng sự lão thành của ngài là Đức Hồng y Wyszynski đã từ trần, và ngài cảm thấy một cách sâu xa việc mất mát vị cố vấn dày dạn kinh nghiệm nầy.

Vào giữa tháng Mười, tình hình gần như hỗn loạn. Nổi loạn và xung đột giữa dân sự và lực lượng an ninh lan rộng. Đức Thánh cha hiểu rằng chính quyền Cộng sản Ba Lan đang chịu sức ép không giảm của Mátcơva để giữ Công đoàn Đoàn kết trong vòng kiểm soát.

Ngày 18 tháng Mười, theo mệnh lệnh của Mátcơva, đảng Cộng sản Ba Lan bổ nhiệm một quân nhân, Đại tướng Wojciech Jaruzelski, làm Bí thư thứ nhất, củng cố thêm ảnh hưởng của quân đội trong chính phủ.

Trong khoảng thời gian ấy, Vermon Walters, đặc sứ của Tổng thống Reagan thăm viếng Vatican với các bức ảnh tình báo. Suốt một phút, Đức Thánh cha xem kỹ các hình ảnh vệ tinh đó. Ngài nhận ra ngay Nhà máy Đóng Tàu Lênin ở Gdansk. Ngài để ý tới một vòng đen đặc ở cách không xa các toà nhà của nhà máy liên hợp quen thuộc.

Chỉ vào vòng tròn ấy, ngài hỏi:

– Cái gì đây?

– Thưa Đức Thánh cha, vật liệu nặng,

Walters nói như thế và cắt nghĩa đó là quân xa, tàu vận chuyển người, xe thiết giáp. Bức ảnh ấy và những bức ảnh khác mà Walters lôi ra từ bì thư cho thấy sự triển khai và những di chuyển tiếp sau đó của các lực lượng vệ binh Sô viết hướng về biên giới Ba Lan, hàng chục ngàn toán quân từ doanh trại của họ đang hướng sang quê hương của Đức Thánh cha.

Sợ hãi cuộc xâm lăng của Sô viết nếu mình không thẳng tay đối phó với Công đoàn Đoàn kết, Jaruzelski chuẩn bị thiết quân luật. Vào sáng Chúa nhật 30 tháng Chạp, người dân thức dậy thấy xe bọc sắt trên đường phố và không được phép tụ tập tại bất cứ nơi nào ngoại trừ tham dự Thánh lễ ở nhà thờ.

Lúc 6 giờ sáng, Jaruzelski hiệu triệu quốc gia trên đài truyền hình, tuyên bố thiết quân luật toàn quốc. Trước khi ông ta kết thúc bài huấn thị dài 22 phút của mình, hàng ngàn người đã bị bắt giam. Những tù nhân ấy, ông ta nói, phạm tội âm mưu phá hoại quốc gia.

Tại Vatican, thư ký của Đức Thánh cha, Đức ông Dziwisz vội vàng báo cáo lên Đức Gioan Phaolô II. Đức Thánh cha hội họp với các phụ tá để triển khai một chính sách đối phó. Ngài tin là Công đoàn Đoàn kết phải duy trì sự tồn tại trong bóng tối. Với điều ấy trong tâm trí, ngài bắt đầu lên kế hoạch cho một chuyến đi đột ngột về thăm quê hương mình.

Sau khi Toà Bạch ốc nhận được tin tức từ Ba Lan, Ronald Reagan kêu gọi phong toả cả Liên Sô lẫn Ba Lan về kinh tế, ngoại giao và kỹ thuật.

Sáu tháng sau, ngày 7 tháng Sáu 1982, Reagan đến Vatican để họp thượng đỉnh, cá nhân hoá liên minh bí mật đặc biệt giữa Đức Gioan Phaolô II với bản thân ông trong cương vị Tổng thống Hoa Kỳ.

Dù trái ngược nhau về trí thức, Đức Thánh cha và Tổng thống Hoa kỳ sớm tìm thấy một nền tảng chung. Hai vị đều tin sâu xa vào sức mạnh của hành động tượng trưng cũng như vào vai trò của sự quan phòng thiêng liêng. Tổng thống từng tâm sự với phu nhân và các phụ tá thân cận sự tin chắc rằng vai trò của mình và Đức Thánh cha trong việc đánh bại chủ nghĩa cộng sản là lí do khiến cả hai không tử nạn vì những viên đạn ám sát.

Gặp gỡ riêng không cần thông dịch viên, hai người quyền uy nhất quả đất này thảo luận về một xác nhận căn bản: sự sụp đổ của Đế quốc Sô viết là điều không tránh nổi.

Reagan xác minh rằng Chính quyền của mình không rút lại sự cấm vận Liên Sô hoặc Ba Lan cho tới khi chấm dứt thiết quân luật, thả các tù nhân chính trị và bắt đầu cuộc đối thoại giữa chính phủ Ba Lan, Giáo hội Ba Lan và Công đoàn Đoàn kết.

Đức Thánh cha thực hiện áp lực riêng của ngài. Ngày 16 tháng Sáu, thêm lần nữa ngài trở về Ba Lan. Hôm sau, ngài gặp Jaruzelski để nối tiếp việc thảo luận nhằm giải quyết cuộc khủng hoảng. Jaruzelski sửng sờ kinh ngạc khi tiếp đón Đức Thánh cha. Y hệt nhiều người Ba Lan khác, ông thấy ngài là một khuôn mặt gần như bí nhiệm.

Viên tướng này muốn Đức Thánh cha dùng ảnh hưởng của ngài để cô lập phía cực đoan nhất bên trong Công đoàn Đoàn kết. Đức Thánh cha nghiêm chỉnh trong lời đáp của mình:

– Tôi khao khát đạt tới một tình trạng ổn định bền vững càng sớm càng tốt.

Và ngài tuyên bố, có ý đề cập tới việc chấm dứt thiết quân luật:

– Lúc đó, Ba Lan sẽ được các nước khác đánh giá một cách rất khác.

Ngược lại, phương Tây sẽ không hủy bỏ cấm vận dưới bất cứ hình thức nào khác.

Sau đó, Đức Thánh cha tiếp xúc với Lech Walesa và các trí thức có liên hệ bí mật với Công đoàn Đoàn kết trong bóng tối. Tổ chức ấy không còn chỉ là một công đoàn lao động ngoài vòng pháp luật. Nó đã trở thành biểu tượng cho sự đề kháng.

Vào lúc kết thúc cuộc viếng thăm, Đức Thánh cha gặp riêng Jaruzelski hơn 90 phút, bề ngoài là theo lời yêu cầu của chính ngài. Đức Gioan Phaolô II nói một cách trực tiếp và đầy sức thuyết phục. Không lâu sau khi ngài quay về Vatican, thiết quân luật được bãi bỏ.

Đời sống ở Ba Lan dần dần trở nên bình thường. Ngày 11 tháng Chín 1986, chính quyền tuyên bố ân xá rộng rãi và thả 225 tù nhân. Lần đầu tiên trong năm năm qua, các lãnh tụ Công đoàn Đoàn kết cảm thấy một số cấm kỵ được hủy bỏ.

Năm 1990, với nền dân chủ được khôi phục đầy đủ tại Ba Lan, Lech Walesa, người cựu thợ điện và thủ lãnh Công đoàn Đoàn kết trúng cử tổng thống.

Ảnh hưởng vang đội từ Ba Lan làm rúng động khối Đông Âu. Hunggari lần đầu mở cửa biên giới với Áo tháng Năm 1989. Đến tháng Mười, hàng trăm ngàn người xuống đường phản đối chính phủ Đông Đức. Sau cùng, Bức tường Bá Linh sụp đổ vào tháng Mười một. Hôm sau, nhà lãnh tụ 35 năm của đảng cộng sản Bulgary Todor Zhivkov bị kết liễu với sự thanh lọc đảng, và tại Tiệp Khắc, một chính phủ liên hiệp giữa người Cộng sản và những người Czech đối lập được thành lập.

Và tháng Tám 1991, Đế quốc Đỏ đi vào cơn thống khổ chết chóc khi Boris Yelsin, chủ tịch Cộng hoà Liên bang Nga, phá vỡ cuộc đảo chánh của các phần tử bảo thủ của Bộ Chính trị.

Các quân cờ đô-mi-nô cộng sản đổ nhào.

Khi những người khác qui kết cho Đức Thánh cha việc sụp đổ của cộng sản, ngài nói:

– Tôi không tác động cho việc đó xảy ra. Cây ấy đã mục sẵn. Tôi chỉ khéo rung, và các trái táo thối rữa rơi xuống.”

Lúc này, Đức Gioan Phaolô II chuyển sự chú ý của ngài vào những vấn đề làm ngài quan tâm, sâu xa hơn sự sụp đổ của cộng sản: tương lai của Giáo hội trong thiên niên kỷ tới; phẩm giá của người lao động, vai trò của Công đồng Vatican khiến cho những cội rễ Do Thái của Kitô giáo được thừa nhận và khiến cho không khoan dung chủ nghĩa bài Do Thái.

Vấn đề sau cùng trên gây thương tâm cách riêng cho Đức Gioan Phaolô II vì có quá nhiều người Do Thái Ba Lan bỏ mình trong các trại tử thần của Quốc xã. Ngài cũng không bao giờ quên việc mất mát người bạn của mình Ginka Beer.

Hàng chục năm sau lời từ biệt u sầu của họ, Đức Thánh cha, trong một buổi triều kiến công chúng tại Quảng trường Thánh Phêrô có sự tham dự của dân chúng đến từ thành phố quê nhà của mình. Có người đến báo cho ngài một tin tức kỳ diệu:

– Thưa, Ginka có mặt ở đây.

– Đâu?

Ngài hỏi ngay và lẹ bước tới gặp nàng. Ginka Beer Reisenfeld lúc này lớn tuổi, thuật lại:

– Ngài hỏi tôi đủ thứ câu hỏi.

Bà nói với Đức Thánh Cha:

– Mắt ngài thương cảm sâu xa. Ngài nắm lấy hai tay tôi, chúc lành cho tôi và cầu nguyện ngay trước mặt tôi.

Từng đầy ắp tâm trí về nhu cầu đối thoại với Do Thái, Đức Gioan Phaolô II biểu lộ một cử chỉ cao cả khi băng ngang Sông Tiber viếng thăm Hội đường chính của Do Thái giáo ở La Mã, đấy là một việc mà trước đây chưa từng có vị Thánh cha nào làm. Như người La Mã gốc Do Thái biết, cộng đồng họ xưa hơn Hội thánh Kitô giáo lâu năm nhất. Khi hai Thánh Phêrô và Phaolô tới La Mã, sách Torah (Ngũ Kinh) đã được đọc và ngày Sabbath đã được tuân giữ từ trước tại kinh đô của Đế quốc La Mã.

Những người xem kể lại rằng khi phát biểu trong Hội đường ấy, có lúc Đức Thánh cha dường như gần kiệt sức. Có lần, khi còn bé, ngài đi với bố vào một hội đường Do Thái trong làng mình để nghe hát thánh ca. Giờ đây, ngài ngồi trên chiếc ghế mạ vàng lắng nghe ca đoàn hát bài “Ani Maamin” (Tôi tin), từng được những người Do Thái bị kết án trong các trại tử thần hát trên đường đi vào lò hơi ngạt. Khi tiếng ca đoàn vang cao lên, Đức Thánh cha chúi về trước, đầu cúi xuống và tay ngài che miệng mình.

Dù sức khoẻ của Đức Gioan Phaolô II đang sa sút, những năm cuối tại vị Thánh cha của ngài được biểu thị đặc điểm bởi những bùng nổ hoạt động. Và dù tay ngài càng lúc càng yếu khi ngài đưa lên chúc phúc tín đồ, nó vẫn chỉ tới một chân trời bao la hơn.

Carl Berstein và Marco Politi, Nguyễn Ước dịch

Vietcatholic News

Leave a comment »

CHÂN DUNG THÁNH VICENTE FERRIO

Thánh VINCENTE FERRIO
Linh Mục (1350 – 1419)

Lễ kinh vào ngày 05-04 hằng năm

Đối với tín hữu Việt Nam, thánh Vincentê Ferriô đã thường được khấn như vị thánh hay làm phép lạ. Cuộc đời của vị tông đồ Âu Châu, vinh quang của Giáo hội, vinh dự của dòng giảng thuyết này cũng rất lạ lùng, Ngài chào đời tại Valentia nước Tây Ban Nha ngày 23 tháng 01 năm 1350. Mặc dầu gia đình giàu có, nhưng thân mẫu thánh nhân đã muốn tự mình nuôi dưỡng con.

Lên sáu tuổi, Vincentê cắp sách đến trường và đã tỏ ra có nhiều ân huệ đặc biệt. Còn là một con trẻ ngây thơ nhưng Ngài đã có sức hấp dẫn lạ lùng. Bạn trẻ thường vây kín quanh Ngài để tham dự một trò chơi diễn lại bài giảng ở nhà thờ. Vincentê luôn diễn giảng chính xác và hùng hồn một cách đáng ngạc nhiên. Mười hai tuổi thánh nhân theo môn triết học, mười bốn tuổi Ngài học thần học. Người ta kể rằng vào lúc này, đã một lần thánh nhân làm cho một đứa trẻ đã chết sống lại. Câu chuyện xảy ra khi những đứa bạn xấu bày trò chết giả và xin Vincentê thương giúp. Nhưng đứa giả chết lại chết thật làm chúng phải kinh hoàng. Đáp lời van xin khẩn thiết của chúng, thánh nhân đã cầu nguyện rồi cầm tay đứa chết cho nó sống lại.

Lên mười bảy tuổi, Vincentê đã được các giáo sư coi như ngang hàng với mình. Đây là lúc Ngài phải quyết định hoặc làm giáo sư tại Roma và lập gia đình, hoặc là theo đuổi lý tưởng tu dòng. Thánh nhân đã quyết định gia nhập dòng thánh Đaminh. Đầy xúc cảm và hãnh diện, ngày 05 tháng 02 năm 1367, ông thân sinh đã dẫn Ngài tới cha bề trên dòng Đaminh ở Valentina.

Nhưng chưa được một năm, thân mẫu Ngài lại luyến tiếc tương lai rực sáng của con, và đã cố gắng đưa con trở về lại thế gian. Thoạt đầu Vincentê có cám dỗ, nhưng sau đó Ngài đã thốt lên câu nói làm đà tiền cho suốt cuộc đời: – Lạy Chúa, con chọn Chúa mãi mãi.

Ngài được đưa về Barcelona và năm1370 đã trở thành giảng viên triết học tại dòng Đaminh ở tại Lerida. Năm 1373, khi trở lại Barcelona để học tiếng Ả rập và Do thái Ngài đã trở thành nhà giảng thuyết lừng danh.

Năm 1377, Vincentê được gọi sang Toulouse để học thêm. Mới đây Ngài kéo được sự chú ý của đức hồng y Pedro da Luna, vị đại diện của phản giáo hoàng tương lai ở Avignon. Từ năm 1385 tới năm 1930 thuyết giảng thần học ở nhà thờ chính toà Valentina và sau đó vào nhóm với Hồng Y Pedro Da Luna. Ngài nhiệt tâm rao giảng nhất là cho dân Do thái và dân Mô (Maures). Ngài đã cải hóa được một thày Rabbi ở Valladolid, người sau này trở thành giám mục Phaolô miền Burgos và cùng với thánh nhân can đảm trong nỗ lực cải hoá người Do thái ở Tây Ban Nha. Từ năm 1391 Yolanda ở Aragon. Thời kỳ này, Ngài bị tra vấn vì rao giảng sự thống hối. Pedro Da Luna, người đã được chọn làm giáo hoàng Benedictô XIII ở Avignon đã cứu Ngài khỏi bị xử án và mời Ngài về giáo triều làm cha linh hướng và cha giải tội.

Tỉnh ngộ trước những nỗ lực nhằm hàn gắn sự phân rẽ giữa Roma và Avignon, thánh Vincentê được thị kiến thấy Chúa Giêsu ở giữa thánh Phanxicô và thánh Đaminh sai đích danh Ngài đi rao giảng sự thống hối. Tháng 11 năm 1399 được Đức Bênêdictô XIII cho phép làm việc này, Ngài đã rao khắp miền Tây Âu để rao giảng cho tới ngày lìa trần. Từng đoàn hối nhân từ 3000 tới 10.000 người theo Ngài và đánh tội.

Năm 1416, Ngài rút lại sự ủng hộ của mình và của vương quốc Aragon đối với Đức Bênêdictô XIII vì vị phản giáo hoàng ở Avignon không nghiêm chỉnh để hàn gắn sự phân rẽ khi từ chối đòi hỏi thoái vị công đồng Constance đưa ra. Quyết định của thánh Vincentê có ảnh hưởng tới việc thoái vị của Đức Bênedictô và giúp dễ dàng chấm dứt sự phân rẽ.

Thành quả thánh Vincentê thực hiện được thật lớn lao. Đối lại, thánh nhân đã phải chịu biết bao nhiêu là đau khổ thử thách. Chúng ta đã nói đến thử thách buổi đầu khi Ngài chọn đời sống hiến dâng. Lời vu oan đuổi theo từng bước chân Ngài và các tội nhân cứng lòng tìm hết cách để tiêu diệt Ngài. Chúng ta nhắc lại đây hai trường hợp:

  • Một phụ nữ dâm dật lẻn vào phòng Ngài, nhưng thánh nhân thay vì chiều theo những đề nghị của chị ta, đã giảng giải cho chị biết rõ sự nguy hiểm bị hư mất đời đời, khiến chị ta quỳ gối dưới chân Ngài xin lỗi rồi rút lui vào một tu viện để đền tội.
  • Một phụ nữ khác giả bệnh để mời Vincentê đến. Vừa thấy Ngài tới phòng, chị ta không một chút hổ thẹn đã tỏ rõ ý định của mình. Thánh nhân lập tức rút lui. Giận dữ chị ta vu cáo rằng: thánh nhân đã dám xâm phạm tiết hạnh chị. Nhưng về sau chị đã thú nhận tất cả và công khai đền tội.

Vượt qua được những thử thách, thánh Vincentê còn có những bí quyết để thành công, chẳng hạn trong việc học hành Ngài cho biết: – “Muốn thành công trong việc học hành hãy tham khảo thánh kinh hơn là sách vở. Hãy khiêm tốn xin Chúa ơn được thông hiểu điều bạn đọc, học hành làm mệt trí và làm khô cứng cõi lòng. Bạn thường xuyên đến dưới chân Chúa Giêsu để phục hồi sinh lực”.

Thực hiện lời khuyên của mình, thánh nhân dọn bài giảng dưới chân thánh giá, kèm theo những hành vi sám hối cực khổ. Khi nói với dân chúng Ngài lại quỳ trước thánh giá như thể mọi vinh dự chỉ thuộc về Chúa Kitô mà thôi.

Cuộc đời luôn ướp đặm trong tình yêu Chúa, khiến Ngài được ví như thiên thần Chúa trong buổi lễ Hiện xuống: để trả lời cho đám đông dân chúng nhiều miền khác nhau ngạc nhiên vì hiểu được Ngài, Ngài nói: – Tôi nói tiếng mẹ đẻ của tôi, thứ tiếng độc nhất mà tôi biết với một ít tiếng Latinh và tiếng Do thái. Vậy chính Thiên Chúa thân hành giúp các bạn hiểu được.

Các thôn xóm nào đông mỗi khi nghe tin thánh Vincentê sắp đến : công nhân nghỉ việc, thương gia đóng cửa tiệm buôn, thầy dạy bãi khóa… để đi nghe giảng bất kễ trời mưa hay nắng. Thánh nhân nhiệt tâm nói về sự chết và hỏa ngục. Nhiều tiếng khóc than nức nở cắt ngang lời Ngài khiến Ngài cũng phải khóc theo. Người ta nói rằng nhiều tội nhân nghe lời giảng của Ngài đã ngã chết vì đau đớn rồi hiện về cho biết lòng thống hối đã làm cho họ đáng được hưởng Nước thiên đàng.

Chấm dứt bài giảng, thánh nhân tiếp tục ngồi tòa để phục sinh các tâm hồn.

Hay nói về sự chết và hỏa ngục nhưng thánh nhân cũng thường dùng tính hài hước để sửa dạy các tâm hồn. Ngày nay người ta còn nhắc lại mãi câu chuyện của một phụ nữ. Nàng đau buồn nhiều vì tính nóng nảy của chồng, nhưng không biết dẹp tính bép xép của mình. Thánh nhân khuyên nhủ nàng : – Đây là phương thế có thể sửa đổi tính nóng của chồng chị. Ra về chị hãy xin thày giữ cửa một bình kín ở giếng nhà dòng. Mỗi khi chồng về nhà, chị hãy uống một ngụm, nhưng đừng đừng nuốt ngay và ngậm càng lâu càng tốt. Giữ mãi được như vậy, chồng chị sẽ hiền lành như một con chiên.

Sau một thời gian kết qủa thật khả quan. Người chồng hoàn toàn thay đổi và người phụ nữ tới cảm ơn thánh nhân, vì phương dược thần hiệu đã tiêu diệt được mọi cuộc cãi vã. Phương ngôn Tây Ban Nha còn nói: – Hãy uống nước Thày Vincentê

Một người trong cơn thù hằn đã không muốn tha thứ cho người thợ đóng giày. Thánh nhân bảo: – Hãy tha thứ cho chính mình. Ông đang gậm nhấm lòng mình vì không quan tâm đến linh hồn hư mất trong khi vẫn ăn uống và phí phạm thời gian.

Người đó đành thú nhận : – Vâng, tôi hiểu rằng: ghen ghét như vậy là khùng.

Ngoài nhiệt tình và tài hùng biện đã mang lại thành công cho thánh Vincentê, còn phải kể đến những phép lạ mà Chúa đã làm qua tay thánh nhân. Ngài đã làm vô số những phép lạ. Chỉ nguyên việc điều tra ở Avignon và một vài thành phố khác cũng ghi lại được hơn 860 phép lạ thánh nhân đã làm. Chúng ta ghi một vài sự kiện:

  • Ở Morella, thánh Vincentê đã cứu sống một đưá trẻ mà người mẹ nó trong một cơn điên, đã giết rồi đem nướng.
  • Ở Pampeluna Ngài đã dạy một người bị xử tử oan uổng nói lên sự thật.
  • Ở Vannes Ngài đã bảo một em bé da đen mới sinh nói rõ ai là cha mình, để giải tỏa nỗi lòng đau khổ của người mẹ vì bị chồng nghi ngờ… tuy nhiên chính cuộc sống của thánh Vincentê đã là một phép lạ với những chuyến đi khắp nơi bất kể thời tiết và với việc ăn chay, cuộc sống khắc khổ không ngừng.

Năm 1417 bá tước miền Bretanghe mời thánh nhân tới lãnh điạ của mình. Giữa cuộc tiếp rước long trọng, Ngài đã yếu đuối khó đứng vững nổi, nhưng mỗi khi làm việc, một sinh lực mới khiến Ngài hăng hái hoạt động như hồi thiếu niên, để rồi khi xong việc sức lực Ngài lại tàn tạ như cũ. Ròng rã hai mươi tháng như vậy, thánh nhân đã nỗ lực cải hoá miền Bretagne và Normandie.

Cuối cùng Ngài mới trở về Valentia. Nhưng tới Valentia Ngài kiệt sức và qua đời ngày 05 tháng 04 năm 1419.

Bình luận đã bị tắt